Giới thiệu về chuyên ngành điều dưỡng và điều dưỡng viên là ai?
Có lẽ trong số chúng ta hoặc người thân đã một lần vào viện hoặc thăm bệnh đang nằm bệnh viện, và đặc biệt là nuôi bệnh nhân qua một ngày đêm sẽ rõ hơn về công việc của một điều dưỡng và quả thật điều dưỡng là một giấc mơ thời thơ ấu của nhiều người không kém ao ước trở thành một bác sĩ, vì đó là nghề đa kỹ năng và đáng theo đuổi phục vụ sức khỏe nhân dân. Nếu như chức năng của thầy thuốc là khám bệnh, chẩn đoán và ra y lệnh điều trị thì chức năng chính của điều dưỡng là chăm sóc. Người điều dưỡng được đào tạo để chủ động thực hiện chức năng chăm sóc và phối hợp với bác sĩ trong điều trị. Chỉ đơn giản vậy thôi nhưng công việc của họ lại chẳng đơn giản chút nào, bởi họ chính là người đầu tiên tiếp xúc khi người bệnh đến cơ sở y tế và cũng là người cuối cùng chuẩn bị cho người bệnh ra viện. Không quản ngại cho dù đó là người mắc bệnh gì: lao, phong, AIDS hay SARS... họ chính là người theo dõi, chăm sóc, tập luyện, nuôi dưỡng và nâng giấc cho người bệnh trong suốt quá trình điều trị. Nếu không may người bệnh tử vong, điều dưỡng là người cuối cùng chăm sóc làm cho cái chết của bệnh nhân được thanh thản... Trong mọi hoạt động chuyên môn, điều dưỡng thường diễn ra trước để chuẩn bị cho công tác điều trị, đồng thời diễn ra trong và sau quá trình điều trị, tạo nền tảng bảo đảm cho công tác điều trị người bệnh được an toàn. Các dịch vụ chăm sóc do điều dưỡng cung cấp có phạm vi rất rộng lớn từ việc hỗ trợ chẩn đoán, điều trị, thực hiện các kỹ thuật chuyên môn tinh xảo đến việc chăm sóc vệ sinh cơ bản... Khi xã hội càng phát triển thì nhu cầu chăm sóc ngày càng cao đặc biệt đối với các bệnh để lại di chứng, các căn bệnh khó điều trị như HIV, ung thư... Người điều dưỡng được ví như người chiến sĩ cận kề với người bệnh trong bệnh viện, gần gũi với người dân trong cộng đồng và là công cụ chiến lược để tăng cường sự tiếp cận người nghèo đối với các dịch vụ y tế. Đánh giá về vai trò của họ, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) nhận định: “Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe do người điều dưỡng - hộ sinh cung cấp là một trong những trụ cột của hệ thống dịch vụ y tế”. Thực tế trong công tác bệnh viện có tới trên 50% công việc là do điều dưỡng thực hiện. Do vậy, có thể xem là công tác điều dưỡng ngang bằng công tác điều trị trên phương diện chăm sóc sức khỏe con người.
Con người (bao gồm người lành và người bệnh)- là tài sản vô gía của xã hội và là đối tượng phục vụ của ngành điều dưỡng. Chức năng nghề ngiệp của người điều dưỡng là hỗ trợ bệnh nhân, nhằm đáp ứng các nhu cầu cơ bản của họ và nhanh chóng đưa họ từ trạng thái bệnh về trạng thái bình thường. Cũng như các lĩnh vực khác trong y học, thì điều dưỡng vừa là một nghề vừa mang tính nghệ thuật và có chất khoa học. Ngành điều dưỡng có vinh hạnh được phục vụ sức khỏe của con người, nên cần phải có kiến thức, kỹ năng và thái độ thích hợp để duy trì và nâng cao tình trạng sức khỏe cho nhân dân.
Chức năng và loại hình của điều dưỡng
- Chức năng: gồm có chức năng chủ động và chức năng phối hợp, trong đó:
- Chức năng chủ động: là gồm những nhiệm vụ chăm sóc cơ bản thuộc phạm vi kiến thức người điều dưỡng đã được đào tạo và người điều dưỡng có khả năng thực hiện chủ động các công việc ấy.
- Chức năng phối hợp: liên quan đến việc thực hiện y lệnh của thầy thuốc và báo cáo tình trạng bệnh nhân trực tiếp cho các thầy thuốc điều trị. Trong chức năng phối hợp, người điều dưỡng là người cộng tác của thầy thuốc thay vì quan niệm trước đây chỉ là người trợ tá cho thầy thuốc. Người điều dưỡng còn phải phối hợp với các bạn điều dưỡng, kỹ thuật viên y học,... để hoàn thành nhiệm vụ chăm sóc của mình.
Điều dưỡng viên hoặc y tá học thường sau khi học xong ở trường, bắt đầu sự nghiệp bằng một y tá thực tập. Phần lớn điều dưỡng /y tá đều bắt đầu bằng một nhân viên y tế, sau đó có thể tiến cao hơn dựa vào kinh nghiệm và khả năng bản thân. Một số ít điều dưỡng chuyển sang lĩnh vực thương mại chăm sóc sức khỏe hay chăm sóc tại gia khi có yêu cầu.
- Loại hình: hiện nay trên thế giới và phần lớn các quốc gia tiên tiến có 2 loại hình điều dưỡng:
- Điều dưỡng hay ytá có đăng ký: có thể cung cấp tất cả những chăm sóc điều dưỡng cho bệnh nhân, bao gồm cả việc quản lý thuốc men;
- Điều dưỡng hay y tá thành viên: chỉ có thể cung cấp dịch vụ chăm sóc điều dưỡng có giới hạn có sự giám sát của một y tá có đăng ký.
Chẳng hạn, để trở thành một y tá có đăng ký ở Úc, chúng ta phải hoàn tất một bằng cử nhân ở trường đại học, những văn bằng này chú trọng vào việc khám chữa bệnh. Trong năm đầu tiên, học các mộn cơ bản về khoa học conngười và thực hành chăm sóc điều dưỡng. Năm thứ hai chương trình học sẽ tập trung nhiều hơn về lĩnh vực đào tạo thực hành và năm thứ ba hầu như toàn bộ thời gian được dành cho việc thực tập trên bệnh nhân. Ngược lại, để thành một y tá thành viên, chúng ta phải hoàn tất một chứng chỉ dạng diploma tại một tổ chức giáo dục và đào tạo hướng nghiệp. Ðây là một khóa học chính quy 2 năm, trong đó bao gồm cả thời gian thực tập. Chúng ta có thể theo học một số ít chương trình sau đại học, thường kéo dài 2 năm toàn thời gian. Hầu hết các khóa học sau đại học được xây dựng cho những ai đã và đang làm việc trong lĩnh vực này. Bạn có thể thay đổi hướng đi nghề nghiệp của mình thông qua những chuyên ngành như là chăm sóc sức khỏe tâm thần, chăm sóc lão khoa và nhi khoa, giáo dục, chăm sóc tình trạng nguy kịch và cấp cứu. Bạn cũng có thể chọn một chuyên ngành chăm sóc điều dưỡng thông qua một số chương trình thạc sĩ trên toàn quốc. Với chuyên ngành này, bạn có thể làm những công việc chuyên môn hơn trong một số môi trường chăm sóc sức khỏe. Những y tá có đủ trình độ chuyên môn ở Úc thường làm việc ở nước ngoài. Cho dù bạn chọn một văn bằng đại học hoặc chứng chỉ VET, bạn cần chắc chắn rằng khóa học này sẽ giúp bạn được cấp giấy phép chăm sóc điều dưỡng ở ít nhất một tiểu bang hoặc lãnh thổ của Úc. Bằng cách này, văn bằng hay chứng chỉ của bạn sẽ có nhiều khả năng được công nhận ở nước ngoài hơn. Hãy liên hệ với các cơ quan chức năng địa phương để đảm bảo việc công nhận.
Với nhận thức con người là tài sản lớn nhất, việc chia sẻ nổi đau với người bệnh là việc làm nhân đạo của con người. Một số dịch vụ vốn có ít nhiều liên đới đến “bàn tay” của điều dưỡng ra đời để cung cấp các dịch vụ trọn gói hoặc bán phần trong việc chăm sóc sức khỏe người bệnh, chủ yếu là cung cấp các dịch vụ theo nhu cầu chung của khác hàng. Các dịch vụ này có thể hợp đồng hoặc liên hệ trực tiếp với các bệnh viện, cơ sở điều trị khác nhau để hỗ trợ bệnh nhân và thân nhân người bệnh. Do đó, tất cả những nhân viên mà được xem như những “điều dưỡng viên” sẽ được tuyển chọn sẽ được đào tạo chuyên sâu, huấn luyện tập trung vào nghiệp vụ chăm sóc người bệnh, người già và người tàn tật, cần trợ giúp. Nhân viên sẽ được thông qua các lớp đào tạo về tâm lý bệnh nhân, thực hành sơ bộ về điều dưỡng với chứng nhận do các đơn vị chuyên nghiệp cấp và được đào tạo và đào tạo lại thường xuyên để nâng cao trình độ. Các dịch vụ như thế gồm có [1] dịch vụ điều dưỡng chăm sóc bệnh nhân tại nhà và [2] dịch vụ thay người nhà chăm sóc bệnh nhân khi nằm viện, tại nhà, đi du lịch ngắn hạn hoặc lâu dài.
Nội dung chính mà các điều dưỡng này thực hiện là khi bệnh nhân xuất viện về nhà cần có điều dưỡng chăm sóc riêng về vệ sinh vết thương, tiêm thuốc theo toa bác sĩ, vật lý trị liệu, ăn qua sonde, tắm bé sơ sinh, chăm sóc sản phụ,.…tất cả những điều đó có thể giải quyết (dịch vụ chăm sóc Lifecare tại gia) hoặc chỉ cần gọi điện cho dịch vụ Lifecare, các nhân viên chuyên nghiệp, tận tâm sẽ thay thế bạn làm tất cả cho người bệnh chẳng khác gì người thân gia đình như túc trực tại bệnh viện cả ngày, đưa bệnh nhân đi khám bệnh, xét nghiệm theo yêu cầu của bác sĩ, lo cơm nước, giúp vệ sinh, thông tin cơ bản về tình hình bệnh nhân (dịch vụ nuôi dưỡng bệnh nhân thay cho thân nhân gia đình vì lý do nào đó bận việc), ….
Các bước tiến hành trong quy trình điều dưỡng
Quy trình điều dưỡng là một loạt các hoạt động theo kế hoạch đã được định trước trực tiếp hướng tới một kết quả riêng biệt. Nhằm ngăn ngừa, giảm bớt, hạn chế những khó khăn của bệnh nhân và thỏa mãn các nhu cầu của người bệnh trong mọi hoàn cảnh. Quy trình gồm 4 bước: [1] Nhận định, [2] Yêu cầu lập kế hoạch chăm sóc, [3] Thực hiện và [4] Ðánh giá. Trong đó chi tiết của từng bước, người điều dưỡng viên phải thực hiện:
§ Về nhận định và đánh giá ban đầu bệnh nhân
- ­ !important;Người điều dưỡng tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân.
- ­ !important;Thu thập thông tin, dữ kiện về tình trạng bệnh, sức khỏe hiện tại, nhu cầu để đưa ra chẩn đoán. Khi đó điều dưỡng viên cần phỏng vấn bệnh nhân, thân nhân người bệnh (nói chuyện, giao tiếp với bệnh nhân và thân nhân).
· Hỏi bệnh: đòi hỏi người điều dưỡng phải có kiến thức, khả năng phán đoán, sự khéo léo tế nhị, có kinh nghiệm và nhạy bén. Nguyên tắc khi hỏi bệnh nhân là đặt câu hỏi, lắng nghe bệnh nhân (nghe nhiều hơn hỏi bệnh), quan sát nét mặt, thái độ, cử chỉ, điệu bộ (sử dụng tất cả các giác quan để quan sát); lưu ý các đề nghị, yêu cầu của người bệnh, dựa vào người nhà bệnh nhân (nếu bệnh nhân hôn mê, bệnh nhi hoặc bệnh nhân rối loạn tâm thần); dựa vào chẩn đoán của bác sĩ (ở phòng khám cấp cứu, khoa điều trị).
· Khám thực thể: tùy thuộc vào tình trạng, thể chất, tâm hồn của người bệnh trong và sau khi thực hiện kế hoạch chăm sóc. Khám thực thể nhằm xác định chức năng về thể chất của người bệnh (tình trạng bệnh). Người điều dưỡng sử dụng 4 giác quan và đánh giá tình trạng toàn thân bệnh nhân từ đầu đến chân.
+ Nhìn: | Nhìn sự biểu lộ trên nét mặt. |
| Tư thế nằm trên giường Màu sắc da, vết thương. Kiểu thở, mức độ tỉnh táo Quan sát tình trạng vệ sinh cá nhân |
+ Nghe: Giọng nói, tiếng thở, lời phàn nàn |
+ Sờ: | Ðếm mạch |
| Cảm giác nhiệt độ của da Sự đàn hồi của da Véo da tìm dấu hiệu mất nước Da ẩm ướt, nhớp nháp, vã mồ hôi Da khô |
+ Ngửi: | Mùi nước tiểu |
| Mùi phân Mùi dịch dẫn lưu Mùi hơi thở ra |
· Sau khi phỏng vấn thu thập thông tin, theo dõi, khám thực thể, dựa vào sự vận dụng kiến thức giải phẫu sinh lý, triệu chứng, bệnh học, điều dưỡng tổng hợp, phân tích đưa ra chẩn đoán điều dưỡng (hay chẩn đoán chăm sóc).
· Chẩn đoán điều dưỡng: khi giai đoạn nhận định kết thúc bằng chẩn đoán điều dưỡng, so sánh sự khác nhau giữa chẩn đoán điều dưỡng và chẩn đoán điều trị điếu dưỡng. Chẩn đoán điều dưỡng và chẩn đoán điều trị liên quan và bổ sung cho nhau.
Chẩn đoán điều trị | Chẩn đoán điều dưỡng |
- Mô tả một quá trình bệnh riêng biệt mà nó cũng giống nhau đối với tất cả bệnh nhân. - Hướng tới xác định bệnh - Không thay đổi trong suốt thời gian bệnh - Bổ sung cho chẩn đoán chăm sóc - Chỉ dẫn hành động chăm sóc độc lập | - Mô tả sự phản ứng đối với một bệnh của bệnh nhân mà nó khác nhau ở mỗi người. - Hướng tới một cá nhân người bệnh - Thay đổi khi phản ứng của bệnh nhân thay đổi. - Bổ sung cho chẩn đoán điều trị - Chỉ dẫn việc điều trị mà người y tá có thể tiến hành. |
§ Yêu cầu chăm sóc (lập kế hoạch chăm sóc)
· Xác định vấn đề ưu tiên: đe dọa tính mạng người bệnh (cấp cứu, khó thở, điện giật,...) hoặc ảnh hưởng đến sự an toàn của người bệnh.
· Xác định mục tiêu hành động: mục tiêu phải tập trung vào bệnh nhân, trình bày chính xác và nhất thiết phải dùng động từ chỉ hành động.
· Lựa chọn hành động chăm sóc: hành động chăm sóc phải phối hợp với chỉ định điều trị, phù hợp với chế độ chính sách của bệnh viện (bảo hiểm y tế) và hành động chăm sóc phải truyền đạt tới bệnh nhân.
· Viết kế hoạch chăm sóc: kế hoạch chăm sóc có tính chất bắt buộc người điều dưỡng phải xem xét lại kế hoạch theo từng thời kỳ để đảm bảo thực hiện những gì đề ra có đúng mục tiêu hay không? Nó minh họa cho sự chăm sóc toàn diện từ lúc vào cho đến khi ra viện. Khi viết kế hoạch chăm sóc phải đặt câu hỏi: Cái gì ? Tại sao? Làm như thế nào ? Đâu ? Ai làm ? Làm khi nào? Nên viết đơn giản, dễ hiểu cho tất cả các nhân viên khác (ngày, tháng,…viết đúng động từ hành động). Ví dụ: đo lượng nước tiểu, chườm lạnh., đo nhiệt độ, mạch, huyết áp, thay đổi tư thế
· Nội dung của y lệnh chăm sóc: hoạt động gì ? thực hiện như thế nào? Trong thời gian nào? (3 giờ/1ần; 15 phút/1lần; sáng hay chiều), người điều dưỡng viết y lệnh và người điều dưỡng thực hiện phải ký tên.
· Kết luận: viết kế hoạch chăm sóc có tác dụng giám sát các hành động của nhân viên, truyền đạt tới nhân viên khác về tình hình bệnh nhân, tiết kiệm thời gian, nhân viên biết việc phải làm, nâng cao hiệu quả chăm sóc.
§ Thực hiện kế hoạch chăm sóc
· Khi thực hiện kế hoạch chăm sóc phối hợp với nhân viên y tế khác, với bệnh nhân, với người nhà bệnh nhân.
· Khi thực hiện kế hoạch chăm sóc người điều dưỡng luôn luôn nhận định bệnh nhân kể cả sự phản hồi của việc chăm sóc (thực hiện các mệnh lệnh điều trị của bác sĩ như tiêm, uống, thay băng..., thực hiện các kế hoạch liên quan đến nhu cầu của người bệnh, kế hoạch chăm sóc phải theo dõi hàng ngày, giờ...phải phù hợp với phương tiện, trang thiết bị hiện có và nhân lực của khoa.
· Hành động chăm sóc phải được thực hiện với trách nhiệm cao và mỗi điều dưỡng viên phải chịu trách nhiệm về công tác của mình làm. Trong quá trình thực hiện kế hoạch chăm sóc thấy có gì bất thường phải báo ngay bác sĩ để phối hợp điều trị và chăm sóc tất hơn.
§ Ðánh giá
· Kế hoạch chăm sóc là phương tiện đánh giá sự hoàn thành các mục tiêu đề ra.
· Kết quả của kế hoạch chăm sóc là ở chỗ tình trạng bệnh nhân khá hơn.
· Lập được kế hoạch chăm sóc, thực hiện mà không có sự đánh giá sẽ không thể nâng cao được chất lượng chăm sóc. Đánh giá mới biết được mức độ tốt, chưa tốt để có kế hoạch thay đổi cho phù hợp những ngày, giờ sau.
Điều dưỡng-Nhân lực không thể thiếu hiện nay
Theo tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì đời sống của người dân ngày càng cao hay nói đúng hơn là phát triển, nhu cầu về chăm sóc sức khỏe ngày càng cao, các Viện, bệnh viện đa khoa, chuyên khoa, các Trung tâm y tế hoặc cơ sở y tế,…Nhà nước hoặc hệ thống y tế tư nhân ngày càng nâng cao và cần có những nhân lực tích cực của điều dưỡng trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Mặt khác, điều dưỡng đã tham gia vào nhiều lĩnh vực như: công ty bảo hiểm, công ty cung cấp dược phẩm, các tổ chức chăm sóc sức khỏe cộng đồng; tham gia vào đội ngũ marketing, tư vấn, phát triển chính sách và kiểm định chất lượng….Nhiều y tá đã được mời về các trường, cơ sở y tế làm giảng viên hay thực hiện, tham gia các công trình nghiên cứu y học.
Tại các gia đình, điều dưỡng viên là người theo dõi, chăm sóc sức khỏe cho các thành viên (bao gồm bệnh nhân và cả người lành). Xã hội phát triển, dân số tăng nhanh thì điều dưỡng viêncần tăng nhu cầu. Theo Bộ Y tế, lực lượng điều dưỡng chiếm gần 50% nguồn nhân lực của bệnh viện nhưng họ lại thực hiện tới 80% công việc điều trị cho bệnh nhân. Họ là người chăm sóc bệnh nhân từ lúc vào viện cho đến khi xuất viện. Với tỷ lệ tại Việt Nam là chưa đến 2 điều dưỡng viên/ 1 bác sĩ thì ở Thái Lan là 8/1 và Nhật Bản là 4/1. Như vậy, nhân lực điều dưỡng viên tại Việt Nam đang rơi vào tình trạng thiếu trầm trọng. Không riêng tại Việt Nam, một số quốc gia trên thế giới, lực lượng điều dưỡng cũng đang thiếu rất nhiều, phải tuyển dụng y tá từ Philippine, Thái Lan, Indonesia hoặc Việt Nam (rất ít), …nên các quốc gia như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Canada cũng phải đứng trước bài toán và đây chính là cơ hội để các nước kém phát triển “xuất khẩu lao động” và Philippines được coi là nước xuất khẩu điều dưỡng viên lớn nhất thế giới, mỗi năm hàng nghìn điều dưỡng được đưa sang thị trường Mỹ với mức thu nhập từ 7.000-10.000USD/tháng.
Tuy nhiên, Việt Nam đành phải bỏ lỡ cơ hội.Một trong những nguyên nhân khiến lực lượng điều dưỡng ít và giới trẻ không “bị hấp dẫn” với với nghề này là do ngành y tế còn thiếu những chính sách đồng bộ: thu nhập thấp, điều kiện làm việc vất vả, ... Đồng thời, trong công tác đào tạo, chúng ta thường chỉ tập trung đào tạo đội ngũ y, bác sỹ mà quên mất phương trình “Điều dưỡng = Điều trị”. Thêm vào đó, với các thí sinh khá giỏi thường lựa chọn khóa đào tạo bác sĩ hoặc dược sĩ hơn là chọn ngành điều dưỡng (Theo ông Đinh Ngọc Đệ, Phó Hiệu trưởng trường ĐH Điều dưỡng Nam Định, mặc dù nhu cầu cả ở trung ương và địa phương rất lớn nhưng mỗi năm trường chỉ có thể đào tạo khoảng hơn 1.000 sinh viên vì cơ sở vật chất, năng lực đào tạo còn hạn chế. Trong khi đó, tại các trường trung học, cao đẳng điều dưỡng trong cả nước, mỗi năm cũng chỉ tuyển sinh 200-300 học viên). Không chỉ thiếu về số lượng mà chất lượng của điều dưỡng viên còn yếu trong cácbệnh viẹn và cơ sở y tế. Theo Hội Điều dưỡng Việt Nam, hiện số điều dưỡng viên có trình độ cao đẳng trở lên chỉ chiếm 5%, số còn lại là tốt nghiệp sơ cấp, trung cấp, làm những công việc thuần túy như phát thuốc, tiêm thuốc cho bệnh nhân chứ không đủ có trình độ chăm sóc và điều trị bệnh cho bệnh nhân.
Nếu so sánh với nước ngoài, sau khi được đào tạo 4 năm cử nhân điều dưỡng, học viên theo chuyên khoa nào phải tiếp tục học chuyên khoa đó mới được hành nghề thì tại Việt Nam, điều dưỡng viên gần như chưa có qua hàm thụ một chuyên khoa nào cả. Hội điều dưỡng Việt Nam cũng cho biết, hầu hết các bệnh viện đều thiếu đội ngũ điều dưỡng viên, trung bình mỗi người phải quản lý gần 3 giường bệnh, áp lực công việc lớn là nguyên nhân dẫn đến những sai sót trong quá trình chăm sóc bệnh nhân: tiêm nhầm thuốc, nhầm bệnh nhân, các y lệnh: nhịp thở, huyết áp, mạch... không được ghi chép đầy đủ. Do vậy, đến khi nào điều dưỡng không được đào tạo đầy đủ và bài bản thì chừng đó chất lượng điều trị, chăm sóc bệnh nhân còn có những bất cập.
Phẩm chất của người điều dưỡng
Do đặc thù của nghề điều dưỡng là chăm sóc bệnh nhân, tư vấn hỗ trợ tâm lý gia đình bệnh nhân, đặc biệt là thân nhân những gia đình bị bệnh nghiêm trọng. Đồng thời chỉ dẫn cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân cách thức hỗ trợ chữa bệnh hay chăm sóc vết thương, những bước cần thiết sau điều trị và tại gia đình của họ; hướng dẫn về chế độ dinh dưỡng, chương trình và phương thức tập luyện,… để giúp bệnh nhân hồi phục nhanh và/ hoặc hạn chế không tái phát bệnh trở lại. Không những thế, điều dưỡng còn phải theo dõi, lưu hồ sơ bệnh án, ghi chép lại triệu chứng bệnh nhân, hỗ trợ bác sĩ kiểm tra, phát hiện, chẩn đoán, phân tích kết quả, vận hành thiết bị y khoa và cấp phát thuốc và hưỡng dẫn cách dùng thuốc điều trị cho bệnh nhân. Đồng thời ghi chép và cập nhật diễn biến bệnh lý, giúp lấy mẫu xét nghiệm, thử nghiệm, ...Chính vì lẽ đó, điều dưỡng phải có y đức, tinh thần trách nhiệm, kiên trì nhẫn nại, thận trọng với từng bước đi trong nhiệm vụ của mình, hậu quả có thể là tính mạng bệnh nhân bị đe dọa hoặc thậm chí tử vong nếu điều dưỡng sơ suất, lơ là trong công việc.Việc học và hành không chỉ dừng ở đó mà phải thường xuyên, tranh thủ trau dồi, nâng cao kiến thức, cập nhật thông tin những loại thuốc mới, bệnh mới (mặc dù không nhiều) và ứng dụng những kỹ thuật mới trong việc hỗ trợ điều trị; điều dưỡng viên có thể tiến lên một vị trí cao hơn tùy thuộc vào chuyên môn, kỹ năng và khả năng lãnh đạo của mỗi người.
Một điển hình về đào tạo điều dưỡng tại Hàn Quốc
Chương trình đào tạo tại Hàn Quốc về điều dưỡng bắt đầu đào tạo trình độ cao đẳng (chương trình 3 năm) từ năm 1945, đại học (chương trình 4 năm) từ năm 1955, thạc sĩ (2 năm) từ năm 1960 và tiến sĩ (4 năm) từ năm 1968. Từ năm 1945 đến nay tại Hàn Quốc chỉ đào tao điều dưỡng ở trình độ từ cao đẳng trở lên. Số lượng trường đào tạo điều dưỡng rất cao, với dân số khoảng gần 50 triệu người, Hàn Quốc có tới 128 trường đào tạo điều dưỡng, trong đó 63 trường đào tạo cao đẳng và 65 trường đào tạo đại học. Trong số 128 trường nói trên chỉ có 15 trường quốc lập (11,7%) và 88,3% là tư thục. Số cán bộ cơ hữu của 128 trường là 1.110 người, tất cả đều là điều dưỡng có chứng chỉ hành nghề. Như vậy, trung bình mỗi trường chỉ có khoảng 10 cán bộ. Chẳng hạn, trường Cao đẳng điều dưỡng Chữ thập đỏ (Red Cross College of Nursing) hiện đang đào tạo 839 sinh viên, chỉ có 11 người là giáo viên cơ hữu giảng lý thuyết; 13 người giảng thực hành và 107 người (điều dưỡng trưởng hoặc cử nhân điều dưỡng có thời gian công tác ở bệnh viện trên 3 năm) hướng dẫn thực hành tại bệnh viện là giáo viên thỉnh giảng. Điều đáng nói ở đây là chất lượng đội ngũ cán bộ cơ hữu của 128 trường:
§ 63 trường cao đẳng với đội ngũ cán bộ là 582 người, giáo sư chiếm 33%, phó giáo sư 29.4%, trợ lý giáo sư 13,9% và hướng dẫn thưc hành (trình độ tiến sỹ và thạc sỹ) là 23.7%. Như vậy, mỗi trường trung bình có khoảng 9 - 10 người là giảng viên cơ hữu.
§ 65 trường đào tạo đại học điều dưỡng với 528 cán bộ: 45,1% là giáo sư, 25% là phó giáo sư, 19.7% là trợ lý giáo sư và 10.2% là hướng dẫn thực hành. Trung bình chỉ có 8 - 9 giảng viên cơ hữu trong 1 trường.
Ở Hàn Quốc, việc đào tạo điều dưỡng trình độ thạc sỹ bắt đầu được tiến hành từ năm 1960, tiến sỹ từ năm 1978. Đào tạo điều dưỡng sau đại học không ngừng được đẩy mạnh: nếu như trong năm đầu tiên chỉ có 1 thạc sỹ (1962) và 1 tiến sỹ (1982) bảo vệ luận văn tốt nghiệp, thì trong năm 2006 Hàn Quốc đã có tới 419 thạc sỹ (50 cơ sở đào tạo) và 104 tiến sỹ (18 cơ sở đào tạo) bảo vệ thành công luận án / luận văn tốt nghiệp.
Tỷ lệ sinh viên có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp là một con số đáng để chúng ta suy nghĩ: 94,9% sinh viên cao đẳng và 95,3% sinh viên đại học sau khi tốt nghiệp có việc làm tại các bệnh viện. Về chương trình đào tạo điều dưỡng của Hàn Quốc gần như không có gì khác biệt so với chương trình đào tạo điều dưỡng của các nước tiến tiến như Úc, Mỹ. Quản lý giảng dạy, nhất là giảng dạy điều dưỡng lâm sàng, giảng dạy kỹ năng điều dưỡng là điều rất khác so với chúng ta hiện nay: tại trường, chỉ có một số giáo sư được phân công giảng dạy lý thuyết. Tuy vậy, tỷ lệ điểm thi lý thuyết chỉ chiếm 30% của điểm thi kết thúc học phần ; một số giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ được phân công giảng dạy kỹ năng tại Phòng thực tập kỹ năng (skillab). Tỷ lệ điểm thi kỹ năng điều dưỡng chiếm 40% điểm thi kết thúc học phần. Tại bệnh viện, sinh viên được các điều dưỡng có năng lực (điều dưỡng trưởng, điều dưỡng có thời gian công tác tại bệnh viện từ 3 năm trở lên) kèm cặp, hướng dẫn thực tập lâm sàng và đánh giá. Giáo viên nhà trường theo kế hoạch đến giám sát việc thực tập của sinh viên và việc hướng dẫn của điều dưỡng, giải quyết những tồn tại (nếu có). Tỷ lệ điểm thi thực tập tại bệnh viện chiếm 30% điểm thi kết thúc học phần. Những tóm tắt về quản lý giảng dạy kỹ năng điều dưỡng trên đây cho thấy việc dạy học kỹ năng điều dưỡng (chiếm 70% tỷ lệđiểm kết thúc học phần) quan trọng như thế nào?
Để hội nhập, đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân ngày càng cao và có thể xuất khẩu điều dưỡng sang các nước phát triển, việc thay đổi chương trình đào tạo điều dưỡng, tạo đội ngũ giáo viên điều dưỡng để dạy điều dưỡng và cải tiến phương pháp dạy học kỹ năng điều dưỡng là những vấn đề cần phải được làm ngay.
Thực trạng về nhân lực điều dưỡng viên hiện nay
Tại các quốc gia tiên tiến như Nhật, Mỹ, Newzealand,...vai trò người điều dưỡng được đánh giá rất cao và bản thân họ được đào tạo và nâng cao thương xuyên, mức thu nhập không thấp. Một vài ví dụ cho thấy, tại Nhật Bản, lương tháng của họ có thể 4000-6000 USD, có nhiều trường hợp cao hơn tùy thuộc đặc thù của chuyên ngành chăm sóc và khoa phòng chuyên trách; tại Mỹ và Thụy Sĩ, thu nhập của một điều dưỡng khoảng trên dưới 6800-12.000 USD/ tháng, Tại Thái Lan khoảng 1200-1600 USD tùy vào lĩnh vực chuyên trách. Đặc biệt hướng phát triển và đào tạo nhân lực của ngành điều dưỡng luôn được quan tâm, đi song hành là : « đào tạo thợ cùng với đào tạo thầy » chứ không phải bất cân đối như tại một số quốc gia.
Riêng tại Việt Nam, điều dưỡng viên đang được coi là thiếu trầm trọng, hiện nay cả nước chỉ có 60.000 điều dưỡng viên, đạt tỷ lệ 1.57 điều dưỡng viên/1 bác sĩ. Trong khi đó tỷ lệ này ở thế giới chung là 4-8 điều dưỡng viên/ bác sĩ. Nếu phấn đấu theo kế hoạch hành động quốc gia về tăng cường công tác điều dưỡng hộ sinh giai đoạn 2002-2010 thì đến năm 2010 cả nước cần 187.000 điều dưỡng viên, đạt tỷ lệ 3 điều dưỡng viên/ 1 bác sĩ. Như vậy, thời gian đến,Việt Nam phải đào tạo thêm khoảng 126.000 điều dưỡng, gấp đôi con số hiện có.
Dân số Việt Nam được dự báo khoảng 89 triệu người vào năm 2010 và số giường bệnh cũng phải tăng lên trên 182.715 giường theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Khi đó, đội ngũ điều dưỡng viên sẽ trở thành vấn đề lớn. Nếu phấn đấu theo "Kế hoạch hành động quốc gia về tăng cường công tác điều dưỡng - hộ sinh giai đoạn 2002-2010", thì đến năm 2010 cả nước cần 187.170 điều dưỡng viên đạt tỉ lệ khoảng 3 điều dưỡng viên/ 1 bác sĩ. Tỷ lệ này sẽ được nâng lên khoảng 3.5 điều dưỡng viên /1 bác sĩ vào năm 2020. Trong khi đó, ở nhiều nước trên thế giới, tỉ lệ trên phải đạt từ 4-8 điều dưỡng viên /1 bác sĩ. Lâu nay, những ngành học trong lĩnh vực y tế thường được đào tạo ở những trường chính quy. Nhưng hiện nay, chỉ tiêu của một vài chuyên ngành được chia sẻ cho các trường ngoài công lập và không chuyên đào tạo. Điều này đã tạo nên sự e dè đối với những người trong ngành. Nếu để nhiều nơi đào tạo điều dưỡng viên thì sẽ có thêm nguồn nhân lực để cung cấp cho các cơ sở y tế, nhất là các trung tâm điều trị; đây là một nghề “đặc biệt”, nếu người học không được thực hành nhiều, tại các cơ sở đào tạo không chuyên thì chất lượng điều dưỡng viên là một khía cạnh cần bàn. Một thực tế hiện nay là các trường ngoài công lập đang tuyển sinh viên ngành điều dưỡng với lượng thí sinh rất lớn, không qua một sự sàng lọc nào, nên chất lượng đầu vào chắc chắn không thể đảm bảo và cũng không ít học viên chọn học ngành điều dưỡng bởi nó nằm trong lĩnh vực y dược và dễ tìm được việc làm.