“Những kết quả của Báo cáo Sốt rét thế giới 2009 (2009 World Malaria Report) là những tiền đề cho sự lạc quan tuy thận trọng. Trong khi còn nhiều thách thức, những số liệu trình bày trong báo cáo này cho thấy rõ rằng sự hỗ trợ ngày càng gia tăng về kinh phí đã giúp tăng cường hiệu quá các biện pháp phòng chống sốt rét (PCSR). Ngược lại, điều này cũng đã tác động mạnh mẽ tới sức khỏe, đặc biệt là đối với trẻ em sống trong khu vực cận Sahara của châu Phi…
 TS. Margaret Chan, Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế thế giới (WHO) |
Báo cáo cũng cho thấy viện trợ kinh phí tăng đã mang lại sự gia tăng độ bao phủ các biện pháp PCSR, đặc biệt là đối với biện pháp màn tẩm hóa chất (ITNs). Báo cáo cũng nêu rõ, ở nơi nào việcthực hiện các biện pháp can thiệp được tăng cường, tình hình SR ở nơi đó giảm mạnh. Trong một chuyến viếng thăm gần đây tại các nước châu Phi, tôi đã chứng kiến cảnh các giường bệnh trong khoa sốt rét không còn bệnh nhân nữa, và hiểu được rằng điều này có ý nghĩa như thế nào đối với các bác sĩ, y tá cũng như gia đình bệnh nhân. Có thể đây là cảm nhận mang tính cá nhân và ngoài lề của báo cáo. Tuy còn nhiều hạn chế, những số liệu trong báo cáo này cho thấy những tác động tích cực của các biện pháp can thiệp đã giúp làm giảm mạnh số ca tử vong so SR ở trẻ em. Đây là tin vui mà tất cả chúng ta đều mong đợi.
…Một cách cơ bản, hiệu quả của các biện pháp can thiệp PCSR cần phải đi đôi với năng lực thực hiện các biện pháp đó cho những cộng đồng sống trong vùng SRLH. Nếu chúng ta không sử dụng đúng những nguồn lực toàn cầu cho y tế, chúng ta sẽ để vuột mất những cơ hội lớn lao đó.”
TS. Margaret Chan, Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
Báo cáo Sốt rét thế giới năm 2009 (2009 World Malaria Report) tóm lượt những thông tin nhận được từ 108 nước nằm trong vùng sốt rét lưu hành cũng như những cập nhật và phân tích từ Báo cáo sốt rét năm 2008. Báo cáo năm năm nêu bật những mục tiêu sẽ đạt được trong giai đoạn 2010-2015 tại cuộc họp của Hội đồng Y tế thế giới (WHA), và những mục tiêu mới về loại trừ sốt rét do Kế hoạch Hành động Phòng chống sốt rét tòan cầu (2008) khởi xướng:
• Cam kết hỗ trợ về kinh phí của các tổ chức quốc tế cho PCSR đã tăng từ 300 triệu USD (năm 2003) lên tới 1,7 tỷ USD trong năm 2009, phần lớn là từ nguồn hỗ trợ của Quỹ Tòan cầu (Global Fund) và hỗ trợ lớn lao từ Sáng kiến PCSR tổng thống Mỹ (US President’s Malaria Initiative), từ Ngân hàng thế giới (World Bank) và các tổ chức khác. Sự gia tăng trong nguồn quỹ này đã giúp tăng cường mạnh mẽ các biện pháp PCSR về mọi phương diện và do đó làm giảm mạnh gánh nặng do sốt rét.
• Sự gia tăng của tỷ lệ hộ dân tại châu Phi (31%) sở hữu ít nhất một màn tẩm hóa chất (ITN) trong năm 2008 so với năm 2006 (17%) và con số trẻ em dưới 5 tuổi sử dụng màn tẩm trong năm 2008 nhiều hơn (24%) tuy chưa đạt được mục tiêu của WHA đề ra là 80%. Nguyên nhân là do một số nước lớn ở châu Phi có tỷ lệ sở hữu màn tẩm hóa chất thấp, và điều này cũng đang được giải quyết theo chiều hướng tích cực hơn. Ở 13 nước có tình hình SR lưu hành nặng, tỷ lệ hộ gia đình sở hữu màn tẩm hóa chất cao hơn 50%.   !important; |
• Việc sử dụng các phác đồ điều trị SR phối hợp có dẫn chất artemisinin (artemisinin-based combination therapies-ACTs) tuy có tăng nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu tại hầu hết các nước châu Phi. Tại 11 trong số 13 nước được khảo sát trong thời gian 2007–2008, chưa tới 15% trẻ em dưới 5 tuổi có sốt được điều trị bằng ACT, thấp hơn khá xa so với mục tiêu của WHA là 80%.
• Hơn 1/3 trong số 108 quốc gia nằm trong vùng SRLH (9 nước châu Phi và 29 nước khác) ghi nhận số ca SR giảm hơn 50% trong năm 2008 so với năm 2000. Tuy vậy, tỷ lệ mắc SR mới ở những nước có SRLH cao nhất lại giảm ít nhất.
• 10 nước đang tiến hành chương trình loại trừ SR trên phạm vi quốc gia, 6 nước trong số đó đang tiến vào giai đoạn loại trừ trong năm 2009. Có 8 nước khác đang ở giai đoạn tiền loại trừ và 9 nước nữa đã khống chế được lan truyền bệnh và đang trong giai đoạn ngăn chận sự quay lại của bệnh sốt rét.
Ở những quốc gia đạt được độ bao phủ PCSR bằng màn tẩm và điều trị SR, số ca SR và tử vong do SR đã giảm tới 50%, điều này cho thấy những Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (Millennium Development Goals-MDG) có thể sẽ đạt được nếu những biện pháp can thiệp chủ yếu được áp dụng một cách thích đáng và phù hợp. Những thành tựu này không chỉ đạt được tại các đảo quốc như Sao Tome & !important; Principe, Zanzibar, Cộng Hòa Thống nhất Tanzania, mà còn ở những nước nằm trong lục địa châu Phi như Eritrea, Rwanda, và Zambia. Những kinh nghiệm từ Sao Tome & Principe, Zanzibar và Zambia với số ca SR và TVSR giảm mạnh là nguồn khích lệ lớn cho mục tiêu giảm chết ở trẻ em dưới 5 tuổi. Đây cũng là những nỗ lực to lớn trong PCSR có thể giúp nhiều nước châu Phi đạt được mục tiêu giảm đến 2/3 số ca TVSR ở trẻ em vào năm 2015 như MDG đã đề ra.
KSTSR kháng thuốc và muỗi kháng hóa chất là những trở ngại chính cho việc đạt được mục tiêu PCSR tòan cầu. Cuộc khảo sát với quy mô lớn về hiệu lực thuốc SR ở các nước có SRLH với sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã cho thấy những bằng chứng ban đầu về KSTSR kháng với artemisinin, và WHO cũng đang nỗ lực tìm các biện pháp chống kháng. Việc tiếp tục sử dụng phác đồ artemisinin đơn thuần tạo điều kiện cho KSTSR kháng thuốc !important; thế nhưng, bất chấp những khuyến cáo của WHO, việc mua bán artemisinin đơn thuần vẫn diễn ra hàng ngày ở nhiều quốc gia.
Việc giải ngân tại các nước có SRLH (theo số liệu mới nhất là 650 triệu USD trong năm 2007), vẫn còn dưới ngưỡng 5 tỷ USD/năm để đạt được độ bao phủ tối đa các biện pháp PCSR toàn cầu. Có khoảng 80% nguồn viện trợ tập trung vào khu vực châu Phi, trong khi đó khu vực Đông-Nam Á lại nhận viện trợ ít ỏi trên phương diện đầu người có nguy cơ nhiễm SR, và trong giai đoạn từ 2000-2007, khu vực này lại được viện trợ ít nhất. Mức độ hỗ trợ kinh phí càng cao cũng đồng nghĩa với trang thiết bị PCSR được đầu tư nhiều hơn và số ca mắc SR giảm hơn.
Tuy nhiên, viện trợ nước ngoài cho PCSR lại không đồng đều và chỉ tập trung vào các nước nhỏ với gánh nặng do SR không lớn. Do đó, cần phải chú trọng vào những thành tựu các nước lớn đạt được, đặc biệt là những nước có số mắc và tử vong do SR lớn, để giữ vững những thành quả đạt được. Điều này không những đòi hỏi phải có các nguồn kinh phí đầy đủ mà còn nâng cao năng lực của hệ thống y tế các nước đó để có thể thực hiện các biện pháp phòng chống vector có hiệu quá, nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị SR bằng ACT, hoàn thiện hệ thống giám sát thường quy bệnh tình hình sốt rét cũng như giám sát KSTSR kháng thuốc SR và muỗi kháng hóa chất.
NHỮNG CỘT MỐC CHÍNH
  !important;
·Bối cảnh
Với mục tiêu của tầm nhìn 2010, những quốc gia có SRLH và cộng đồng quốc tế đang cố gắng đạt được độ bao phủ cao các biện pháp PCSR có hiệu quá nhất nhằm tiến tới đạt các mục tiêu tác động và bao phủ PCSR.
1. Vào Ngày Sốt rét thế giới 2008, Tổng Thư ký Liên hiệp quốc đã kêu gọi những nỗ lực để đảm bảo độ bao phủ các chương trình phòng chống và điều trị sốt rét cho tới năm 2010.
2. Mục tiêu do các nước thành viên của Hội đồng Y tế thế giới (WHA), Sáng kiến Đẩy lùi Sốt rét (RBM) đề ra là giảm số ca mắc và chết do SR từ 50% trở lên trong năm 2010 so với 2000 và từ 75% vào năm 2015.
3. Vào tháng 9/2008, RBM đã thực hiện Kế hoạch hành động PCSR (Global Malaria Action Plan) với các bước thực hiện để đạt được mục tiêu năm 2010 và 2015 trong phòng chống và loại trừ SR
·Chính sách và chiến lược PCSR
Với những mục tiêu trong giai đoạn 2010 và 2015, các quốc gia phải đạt được tỷ lệ nằm màn và phun tồn lưu trong nhà đối với dân số có nguy cơ sốt rét là 100%, và thực hiện chẩn đoán dựa vào phòng thí nghiệm cho tất cả các ca nghi ngờ và điều trị hiệu quả cho tất cả các ca được xác định.
Điều trị
4. Chẩn đoán xác định sớm KSTSR bằng kính hiển vi hoặc thử nghiệm chẩn đoán nhanh (rapid diagnostic test-RDT) cần được áp dụng cho tất cả các ca nghi ngờ SR trước khi điều trị. Các ca SR xác định do P.falciparum chưa biến chứng phải được điều trị bằng phác đồ điều trị SR phối hợp có gốc artemisinin (artemisinin-based combination therapy-ACT) và P.vivax bằng chloroquine khi còn hiệu lực hoặc ACT phú hợp ở những nơi P.vivax kháng với chloroquine. Điều trị bằng P.vivax phải được phối hợp với primaquine 14 ngày để phòng ngừa tái phát.
5. Việc điều trị chỉ dựa vào nghi ngờ lâm sàng phải được cân nhắc khi không có phương tiện chẩn đoán KSTSR. Trong năm 2008, có 20/45 nước trong khu vực châu Phi và 51/64 nước thuộc khu vực khác đã báo cáo thực hiện chính sách chẩn đóan KSTSR cho các ca nghi nhiễm SR ở tất cả lứa tuổi, và 78 nước báo cáo thực hiện điều trị SR do P.falciparum bằng ACT.
6. WHO cũng khuyến cáo các phác đồ artemisinin uống đơn thuần không được lưu hành trên thị trường, và phải thay thế bằng ACTs. Còn 37 nước vẫn cho phép lưu hành artemisinin uống đơn thuần, hầu như là các nước trong khu vực châu Phi, châu Mỹ và Đông-Nam Á.
7. Hiện tượng KSTSR kháng với hóa chất đã làm giảm hoặc mất hiệu lực của các thuốc chống SR sử dụng trước đây, và đang đe doạ tới những nỗ lực PCSR. Các thuốc có dẫn chất artemisinin hiệu lực cao hiện nay cũng như những nhóm tương tự cũng đang có nguy cơ tương tự. Hiện tượng P.falciparum kháng với artemisinin cũng đã được ghi nhận tại biên giới Cambodia-Thái Lan
Phòng chống
8. Trong năm 2008, 23 quốc gia thuộc lục địa châu Phi và 35 nước thuộc khu vực khác đã thực hiện khuyến cáo của WHO về việc cấp màn tẩm cho tất cả các nhóm tuổi có nguy cơ nhiễm SR, không chỉ trẻ em và phụ nữ. So với năm 2007, con số này tăng thêm 13 nước.
9. Biện pháp phun tồn lưu trong nhà (IRS) với các hóa chất do WHO chấp thuận (kể cả DDT) vẫn được xem là một trong những biện pháp can thiệp chính giúp làm giảm và cắt đứt sự lan truyền của SR ở tại các vùng dịch tễ. Trong năm 2008, có 44 nước (gồm 19 nước châu Phi) đã báo cáo sử dụng IRS.
10. Biện pháp điều trị phòng ngừa ngắt quãng (Intermittent preventive treatment-IPTp) được chỉ định cho những phụ nữ có thai sống trong vùng sốt rét lưu hành nặng. Có 33 nước châu Phi, 3 nước thuộc khu vực Đông Địa Trung Hải và 1 nước trong khu vực Tây Thái Bình Dương áp dụng biện pháp này trong năm 2009.
Tiến bộ trong phòng chống SR
Độ bao phủ bằng màn tẩm hóa chất (ITN) đang không ngừng gia tăng ở một vài nước châu Phi, tỷ lệ hộ gia đình sở hữu ITN đã tăng lên 31% vào cuối năm 2008 tại những nước có SRLH cao.
11. Gần 140 triệu màn tẩm tồn lưu dài (long-lasting insecticidal nets-LLINs) được cấp cho csac nước có SRLH nặng thuộc khu vực châu Phi trong thời gian từ 2006-2008.
12. Theo ước tính, có khoảng 31% số hộ gia đình ở châu Phi sở hữu ít nhất một màn tẩm hóa chất và 24% số trẻ em dưới 5 tuổi có ngủ màn tẩm hóa chất vào năm 2008. Tỷ lệ hộ gia đình sở hữu màn tẩm hóa chất đã vượt qua 50% ở 13/35 (37%) các nước có SRLH nặng ở khu vực châu Phi vào năm 2008. Các đợt khảo sát cho thấy có 7 nước (Cộng hòa Guinea xích đạo, Ethiopia, Gabon, Mali, Sao Tome & !important; Principe, Senegal và Zambia) đạt được tỷ lệ hộ gia đình sở hữu màn tẩm hơn 60% trong khỏang 2007-2008.
13. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi ngủ trong màn tẩm hóa chất khi tính bình quân mỗi hộ gia đình sở hữu ít nhất một màn tẩm là 51% (trung vị !important; giới hạn từ14-68%) ở 6 nước có số liệu đầy đủ trong khoảng thời gian 2 năm 2006-2007. Vì đây là những khảo sát về y tế và dân số được thực hiện vào mùa khô, nên có thể tỷ lệ sử dụng màn tẩm hóa chất vào mùa mưa có thể cao hơn.
14. Ở 2 trong số 4 nước thuộc khu vực châu Phi nơi lần khảo sát thứ 2 được tiến hành, tỷ lệ hộ gia đình sở hữu màn tẩm hóa chất giảm đi 13% và 37% sau 24-26 tháng kể từ khi phát màn. Điều này cho thấy cần có những chiến dịch cấp phát màn tẩm hóa chất mạnh mẽ và thường xuyên hơn nữa. Ngòai ra, việc giám sát thường quy độ bền của màn tẩm hóa chất tồn lưu dài (LLINs) và hiệu lực của hóa chất tẩm cũng cần được thực hiện nhằm xác định nhu cầu và hiệu lực màn tẩm.
Tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét
Việc cung cấp các phác đồ điều trị SR phối hợp có dẫn chất artemisinin (ACT) đang được cải thiện, và tỷ lệ trẻ em có sốt được điều trị bằng ACT ngày được nâng cao. Tuy nhiên trong năm 2008, còn nhiều quốc gia chỉ nhận được 50% số liều ACT trong khi phải điều trị tất cả các ca SR tại các cơ sở y tế công lập.
15. Ở 18 nước thuộc khu vực châu Phi nơi có số liệu đầy đủ, có 22% số ca nghi ngờ SR được chẩn đoán xác định qua các thử nghiệm chẩn đoán KSTSR trong năm 2008.
16. Việc tiếp cận với liệu pháp điều trị, đặc biệt là bằng ACT ở các nước châu Phi còn thấp. Theo số liệu thống kê từ năm 2007-2008 ở 11 trong số 13 nước châu Phi, có ít hơn 15% số trẻ em dưới 5 tuổi được điều trị bằng ATC một khi có sốt.
17. Có 9 đợt khảo sát hộ gia đình từ năm 2007-2008 cho thấy 20% số phụ nữ có thai được điều trị ITP lần 2.
  !important; |
Hiệu quả của các biện pháp PCSR
Con số trẻ em tử vong do SR và các nguyên nhân khác đã giảm một cách đáng kể được ghi nhận tại các vùng dịch tễ khác nhau, nơi có độ bao phủ cao và hiệu quả của các biện pháp can thiệp PCSR
18. Số ca mắc và chết do SR đã giảm hơn 50% được ghi nhận ở 4 nước có SRLH nặng tại châu Phi là Eritrea, Rwanda, Sao Tome & !important; Principe và Zambia, và 1 khu vực (Zanzibar, Cộng hòa Thống nhất Tanzania). Tỷ lệ BNSR và TVSR cũng giảm hơn 50% ở 5 nước châu Phi có SRLH nhẹ như Botswana, Cape Verde, Namibia, Nam Phi và Swaziland. Tại Sao Tome & Principe và Zanzibar (Cộng hòa Thống nhất Tanzania), sau 2-3 năm thực hiện rộng rãi các chiến dịch phun tồn lưu trong nhà (IRS), màn tẩm hóa chất tồn lưu dài (LLINs), và điều trị SR phối hợp bằng dẫn chất artemisinin (ACTs), tỷ lệ BNSR và TVSR đã giảm đi một cách rõ rệt. Tuy nhiên tại Rwanda, chỉ có biện pháp LLINs và ACTs mới có hiệu quả.
19. Bằng các biện pháp PCSR tích cực, số ca tử vong do các nguyên nhân tại bệnh viện ở Sao Tome & !important; Principe đã giảm 53% và các khu vực đảo thuộc Zanzibar (Cộng hòa Thống nhất Tanzania) là 57%. Tại Zambia, tỷ lệ trẻ em tử vong do các nguyên nhân giảm 35%. Nếu chỉ tính tại các nước thuộc lục địa châu Phi, những xu hướng này cho thấy một khi các biện pháp PCSR tích cực được áp dụng, thì cho đến năm 2015 con số trẻ em tử vong sẽ giảm đi 2/3, đây cũng là con số do Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) đặt ra.
20. Ở những khu vực khác, trong thời gian từ 2000-2008 số ca mắc SR được chẩn đoán xác định đã giảm hơn 50% tại 29/56 nước có SRLH. Trong khi đó tại các nước có SRLH nặng, tỷ lệ này giảm quá ít, điều này cũng cho thấy cần quan tâm hơn tới những quốc gia có số ca mắc và chết do SR cao bên ngoài khu vực châu Phi.
Loại trừ sốt rét
Vào tháng 9 năm 2008, Tổ chức Sáng kiến Đẩy lùi SR (RBM) đặt mục tiêu loại trừ SR cho 8 đến 10 nước cho đến năm 2015 và sau đó tất cả các nước đã ở giai đoạn tiền loại trừ từ năm 2008.
21. Có 8 nước đang ở giai đoạn tiền phòng chống sốt rét vào năm 2009 !important; 10 nước đang thực hiện chương trình loại trừ SR ở tầm quốc gia (có 6 nước đang tiến vào giai đoạn loại trừ vào năm 2009), và 9 nước khác (Armenia, Bahamas, Ai Cập, Jamaica, Ma-rốc, Oman, Cộng hòa Liên bang Nga, Cộng hòa Ả rập Syria và Turkmenistan) đã cắt đứt lan truyền SR và đang trong giai đoạn ngăn ngừa SR quay trở lại.
Hỗ trợ kinh phí cho PCSR
Các khoản hỗ trợ cho PCSR từ các nguồn quốc tế được cam kết đã gia tăng nhanh chóng, từ khoảng 300 triệu USD trong năm 2003 lên tới 1,7 tỷ USD trong năm 2009. Mức độ đóng góp của các nguồn tài chính nội địa không thay đổi trong suốt thời gian này.
22. Các nguồn kinh phí được giải ngân cho PCSR đã tăng từ 592 triệu USD trong năm 2006 lên 652 triệu USD trong năm 2007. Các cam kết hỗ trợ cho PCSR đã tăng từ 1 tỷ USD trong năm 2008 lên tới 1,7 tỷ USD năm 2009. Điều này cho thấy các nguồn quỹ ngày càng được đóng góp nhiều hơn.
23. Trong số 108 nước có SRLH, 76 nước nhận được hỗ trợ bên ngoài cho các hoạt động PCSR trong thời gian từ 2000-2007. Những nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất có dân số nguy cơ thấp hơn.
24. Các nước nhận được hơn 7 USD hỗ trợ nước ngoài tính theo bình quân đầu người có nguy cơ SR trong khỏang thời gian từ năm 2000-2007 đều báo cáo sô ca SR giảm hơn các nước nhận viện trợ ít hơn.
  !important;
Ngày 16/12/2009
Trần Minh Quý
Biên dịch và tổng hợp từ các nguồn:
World Malaria Report, 2009-WHO:
http://www.who.int/malaria/world_malaria_report_2009/en/index.html
Roll Back Malaria (Partnership): http://www.rollbackmalaria.org/
The World Bank: http://www.worldbank.org/
The Bill & Melinda Gates Foundation: http://www.gatesfoundation.org/Pages/home.aspx