2010: WHO công bố hướng dẫn mới về điều trị và mua thuốc sốt rét
Ngày 9 tháng 3 năm 2010, tại Geneva, Thụy sĩ Tổ chức Ytế thế giới ( WHO) đã công bố hướng dẫn mới trong điều trị bệnh sốt rét và đây cũng là hướng dẫn đầu tiên về việc sử dụng thuốc sốt rét an toàn và hiệu quả. Những năm gần đây, một loại thuốc điều trị sốt rét mới được gọi là thuốc phối hợp gốc Artemisinin (ACTs) đã làm thay đổi cách điều trị sốt rét. Tuy nhiên, nếu không sử dụng một cách phù hợp, loại thuốc này có thể không phát huy được hiệu quả sử dụng.
Hướng dẫn tập trung vào xét nghiệm
Tài liệu “Hướng dẫn điều trị sốt rét” (ấn bản lần 2) đưa ra những khuyến cáo mới và khoa học về cách chẩn đoán và điều trị sốt rét dành cho các quốc gia. Sự thay đổi chính của ấn bản lần 2 so với lần 1 (ấn bản năm 2006) là tập trung vào các xét nghiệm trước khi điều trị và cập nhật thêm loại thuốc mới ACTs vào danh sách các phác đồ điều trị sốt rét. Theo tiến sĩ Robert Newman, giám đốc chương trình sốt rét toàn cầu của WHO (Global Malaria Programme) thìhiện nay, thế giới đã có phương pháp chẩn đoán nhanh và điều trị sốt rét hiệu quả. Vì vậy, WHO đề nghị cần thực hiện xét nghiệm chẩn đoán trong tất cả các trường hợp nghingờ mắc sốt rét. Ông còn cho biết trong trường hợp không thể thực hiện xét nghiệm chẩn đoán sốt rét, thì việc điều trị cần phải dựa trên triệu chứng lâm sàng. Năm 2008, trong 18/35 quốc gia ở châu Phi báo cáo cho WHO thì chỉ có 22% trường hợp nghi ngờ mắc sốt rét được làm xét nghiệm. Mặt khác, cho đến nay, hầu hết các phòng khám vẫn còn sử dụng kính hiển vi để chẩn đoán sốt rét. Tuy nhiên sự ra đời của phương pháp xét nghiệm chẩn đoán nhanh (RDTs) gần đây, có thể làm thay đổi chính sách phòng chống sốt rét. Các xét nghiệm này cho kết quả đáng tin cậy trong việc chẩn đoán sự tồn tại của kháng nguyên KSTSR trong máu và có thể được thực hiện tại các cấp y tế từ cơ sở đến trung ương, hoặc ngay trong cộng đồng cũng có thể thực hiện được.
Xét nghiệm chẩn đoán thông thường
Sự chuyển hướng trong cách chẩn đoán sốt rét bằng test chẩn đoánn nhanh (RDTs) là một bước tiên phong trong công tác PCSR bởi vì nó cho phép tập trung sử dụng thuốc ACTs cho những người thật sự mắc bệnh. Mục đích của việc này là nhằm giảm sự bùng phát và lan rộng của tình trạng kháng thuốc trong cộng đồng và giúp loại ra những bệnh nhân có triệu chứng sốt nhưng không mang mầm bệnh sốt rét, từ đó chuyển đổi cách chẩn đoán và điều trị thích hợp. Mặt khác, kiểm soát sốt rét tốt đồng thời cũng sẽ có tác động đến việc kiểm soát các bệnh khác ở trẻ em, nhờ đó tăng khả năng sống của trẻ. WHO hiện đang hỗ trợ những quốc gia có SRLH cải thiện chất lượng dịch vụ chẩn đoán SR bằng kính hiển vi và RTDs, đồng thời khuyến khích các nhà sản xuất phép thử RDTs tiếp tục cải thiện độ chính xác và chất lượng của chúng. Theo ước tính từ WHO, có khoảng 80 quốc gia hiện đang sử dụng thuốc ACTs tại tuyến y tế cơ sở để phục vụ cho công tác điều trị sốt rét P. falciparum. Trong hướng dẫn mới này, WHO cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc điều trị theo thuốc ACTs đối với thể ác tính của bệnh. Đồng thời, WHO đã thêm ACTs thế hệ thứ 5- là sự kết hợp giữa [Dihydroartemisinin và piperaquine] vào danh sách thuốc điều trị SR.
Ngăn chặn hiện tượng kháng thuốc
WHO khuyến cáo các thuốc gốc artemisinin đơn trị liệu đường uống cần được loại ra khỏi thị trường vì chúng có thể đẩy nhanh sự phát triển kháng của KSTSR. Các quốc gia này cần đảm bảo các bệnh nhân được chẩn đoán thích hợp và uống thuốc ACTs đủ liều nhằm ngăn chặn tình trạng kháng thuốc.
Kiểm soát chất lượng mua bán thuốc sốt rét
Hướng dẫn thực hành tốt việc lưu hành thuốc sốt rét gốc artemisinin được xây dựng dựa trên thỏa thuận sản xuất cũng như các tiêu chuẩn chất lượng kinh doanh mới và chặt chẽ nhất. Tài liệu hướng dẫn này có mục đích tăng cường năng lực hiểu biết về các yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng thuốc và các tài liệu cần thiết dành cho nhân viên bán thuốc. Nội dung chính được trình bày dưới dạng bảng kiểm gồm 16 bước cô đọng và thực tiễn nhằm hướng dẫn các quy tắc lựa chọn và buôn bán các loại thuốc an toàn và hiệu quả theo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Tiến sĩ Andrea Bosman, điều phối viên của Đơn vị chẩn đoán và điều trị của chương trình GMP cho biết thị trường thuốc tại các quốc gia lưu hành dịch sốt rét vẫn còn chưa được quản lý chặt chẽ và các nhà chức trách cần được hỗ trợ để có thể lượng giá được chất lượng thuốc sốt rét trước khi nhập khẩu. Các kênh phân phối thuốc thường nhỏ lẻ, vì vậy chất lượng thuốc trên thị trường vẫn chưa đồng đều. Thuốc kém chất lượng ảnh hưởng đến sức khỏe và gây nguy hiểm cho bệnh nhân, làm giảm uy tín của các dịch vụ y tế và quan trọng nhất là: thông qua việc tạo ra ngưỡng điều trị thấp đối với thuốc sốt rét, sẽ làm đẩy nhanh sự đề kháng của KSTSR đối với thuốc. Tiến sĩ George Ki-Zerbo, giám đốc chương trình phòng chống sốt rét của WHO tại châu Phi cho biết các hướng dẫn này sẽ giúp các quốc gia lựa chọn và nhập khẩu các loại thuốc có chất lượng tốt và cũng giảm được tỷ lệ chết ở bệnh nhân mắc bệnh này thông qua việc cải thiện cách chẩn đoán và điều trị. Một nửa thế giới hiện đang có nguy cơ mắc sốt rét. Mỗi năm gần 250 triệu trường hợp mắc sốt rét, làm chết 860 ngàn người, gần 85% các ca tử vong là trẻ em và chủ yếu xảy ra tại châu Phi.
Phương pháp sinh học tổng hợp có thể giúp kéo dài hiệu quả của thuốc trị sốt rét
Phương pháp sinh học tổng hợp giúp việc điều chế artemisinin, một loại thuốc chống sốt rét, dễ dàng hơn, giá thành giảm và kéo dài hiệu quả của thuốc. Kỹ thuật điều chế artemisinin bằng phương pháp lên men vi khuẩn đã giúp giá thành thuốc thấp hơn nhiều so với những loại thuốc chiết suất từ cây ngãi tây mà hiệu quả điều trị là ngang nhau.
Ý tưởng tổng hợp artemisinin bằng phương pháp tổng hợp sinh học bắt nguồn từ căn bệnh sốt rét, được báo động là vẫn hoành hành cuộc sống của hơn triệu người mỗi năm, chủ yếu là ở trẻ em. Chu kỳ sống phức tạp của trùng sốt rét P. falciparum gây khó khăn cho việc điều trị bệnh. Phương pháp điều trị phổ biến là sử dụng artemisinin, chất tạo ra một lượng cao gốc oxy tự do giúp tiêu diệt ký sinh trùng sốt rét khi chúng tìm cách tấn công vào tế bào hồng cầu. Bởi vì artemisinin được chiết suất từ cây ngãi tây nên giá thành của artemisinin phụ thuộc các kết quả mùa vụ trồng trọt loại cây ấy. Nên, chắc chắn là số lượng artemisinin được cung cấp là rất ít so với nhu cầu của nó. Từ đó mà giá thành của thuốc cũng rất cao để đa số người dân ở châu Phi và nam Mỹ có thể mua được. Vào năm 2002, Keasling và các đồng sự nghiên cứu sử dụng kỹ thuật tổng hợp sinh học. Năm 2003, họ công bố những thành công đầu tiên. Bằng cách cấy gen lên men từ bia và từ cây ngãi tây vào vi khuẩn E.coli và chuyển hóa những vi khuẩn E.coli này để tạo ra amorphadiene, một tiền chất của artemisinin. “Ban đầu việc sản xuất còn ở số lượng ít nhưng chúng tôi sẽ sử dụng kỹ thuật tái tổng hợp gen để nâng cao số lượng chuỗi amorphadiene lên một triệu chuỗi trong E.coli để tổng hợp artemisinin”, Keasling nói.
Vào năm 2006, các nhà khoa học tuyên bố đã tìm ra một kỹ thuật tổng hợp sinh học sử dụng công nghệ gen để tạo ra một chủng mới của men bia có tên gọi là Saccharomyces cerevisiae, mở ra khả năng sản xuất với số lượng lớn axit artemisinin, tiền chất của artemisinin. Năm qua, Keasling và đồng sự đã ký kết hợp đồng cộng tác với Sanofi, một công ty dược hàng đầu của Pháp để sản xuất artemisinin với số lượng lớn trước năm 2010.
Nghiên cứu chế phẩm hỗ trợ điều trị HIV/AIDS: có mặt thuốc Artemisinine
Nhóm các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao công nghệ sinh học (Retib), Công ty cổ phần Traphaco, Bệnh viện Bình Triệu và cơ sở Thiên Phước TP.HCM vừa hoàn thành công trình nghiên cứu khoa học sử dụng các thuốc có nguồn gốc dược liệu hỗ trợ điều trị bệnh nhân HIV/AIDS. Kết quả công trình đã xây dựng được chế phẩm Daisvan có chức năng tăng cường miễn dịch cho các bệnh nhân HIV/AIDS. Daisvan là chế phẩm tổng hợp của bốn loại thuốc có nguồn gốc dược liệu gồm Artemisinin, Berberin, Cadef và Pluramin. Theo GS.TSKH Đái Duy Ban - Viện trưởng Retib - trong số các thuốc trên, Artemisinin có tác dụng tiêu diệt virus HIV, chống sốt; Berberin có tác dụng ức chế virus tăng sinh, chống rối loạn tiêu hóa; Cadef có tác dụng tăng cường miễn dịch, tăng tế bào lympho (tế bào biểu hiện sự suy giảm miễn dịch) và Pluramin có tác dụng tăng cường hồi phục sức khỏe cho bệnh nhân. Sau khi được phép sử dụng Daisvan trên người, nhóm nghiên cứu đã tiến hành cho các bệnh nhân HIV dương tính tại Bệnh viện Bình Triệu sử dụng chế phẩm.
Từ năm 2004 - 2006 đã có 109 bệnh nhân tình nguyện sử dụng. Sau sáu tháng điều trị, 10 triệu chứng lâm sàng ở các bệnh nhân đã giảm rõ rệt. Sau 12 tháng điều trị, các triệu chứng lâm sàng tiếp tục giảm và các bệnh nhiễm trùng cơ hội như viêm phổi, viêm võng mạc, viêm dạ dày, viêm màng não... không xảy ra. Theo ông Ban, kết quả điều trị bằng Daisvan cho thấy tất cả bệnh nhân đều tăng cân, ăn ngủ tốt, ngay cả bệnh nhân được chẩn đoán AIDS, ít bệnh nhân bị nhiễm trùng cơ hội nên quá trình chuyển sang giai đoạn AIDS chậm lại. Hiện nhóm nghiên cứu đang tiến hành xây dựng phác đồ hỗ trợ điều trị trình Bộ Y tế để Daisvan được sử dụng rộng rãi cho các bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS.
Trung Quốc dùng 'ngoại giao sốt rét' với châu Phi
Trong một phòng thí nghiệm ở Quảng Châu, thành phố phía nam Trung Quốc, các nhà khoa học đang cố gắng chiết xuất cây ngải tây ngọt để tạo ra artemisinin, một hợp chất được sử dụng để chống sốt rét. Trung Quốc hy vọng sẽ nghiên cứu và sử dụng loại thuốc này như một vũ khí đặc biệt riêng trong cuộc chiến chống sốt rét không chỉ với đại lục, mà còn ở châu Phi – châu lục mà cứ 30 giây lại có một em nhỏ tử vong vì căn bệnh này. Thực tế, một chương trình trị tận gốc sốt rét mà Trung Quốc áp dụng trên một hòn đảo ở châu Phi đã chứng minh tính hiệu quả lớn. Trở lại phòng thí nghiệm ở Quảng Châu, các nhà khoa học cũng thu được nhiều kết quả. Một trong những tủ lạnh của phòng thí nghiệm chứa đầy ống nghiệm đựng giống cây ngải tây ngọt (còn gọi là Artemisia annua L.) - loại cây chỉ tìm thấy ở vùng hoang vu thuộc Trung Quốc, Việt Nam và khu vực biên giới Myanmar. "Có khoảng 0.6 phần artemisinin trong 100 phần mỗi cây tự nhiên, nhưng chúng tôi phải cố gắng gia tăng hàm lượng artemisinin lên 1,2-1,8”, Phong Lí Linh, một trợ lý giáo sư thuộc Học viện y khoa nhiệt đới tại Đại học y học dân tộc Quảng Châu, Trung Quốc nói.
Tại Diễn đàn Hợp tác Trung Phi (FOCAC) ba năm một lần vào 2006, Trung Quốc đã cam kết giúp châu lục đen trong cuộc chiến chống sốt rét và kể từ đó đã xây dựng trên 30 đơn vị phòng và chống sốt rét. Cuộc gặp FOCAC tiếp theo diễn ra ở Ai Cập. Theo giáo sư chính trị Joseph Cheng thuộc Đại học Hong Kong, việc giúp các nước đang phát triển tiêu diệt sốt rét sẽ góp phần hoàn tất mục tiêu gia tăng ảnh hưởng và danh tiếng như một cường quốc toàn cầu mà Trung Quốc đề ra. "Trung Quốc đang thăm dò những con đường hiệu quả để giúp đỡ Thế giới thứ Ba và hứng thú với việc tạo ra đóng góp khác biệt”, Cheng nhấn mạnh. "Sốt rét phù hợp với chiến lược này, nó không quá đắt, nó rẻ hơn cuộc chiến chống AIDS”.
Tanzania, Kenya và Nigeria đã bắt đầu có trang trại trồng và lai ghép cây ngải tây ngọt, Lí Quốc Kiều tại Học viện Y khoa Nhiệt đới cho biết. "Tôi đã xem xét các khu vực trồng cây và thấy ngải tây phát triển tốt”, Lí nói. Khi được hỏi liệu Trung Quốc sẽ xuất khẩu Artemisia annua L. sang châu Phi, ông cho biết. “Chúng tôi muốn trồng chúng ở Trung Quốc và việc xuất khẩu phụ thuộc vào quan hệ song phương”. Ông tham gia một dự án thí nghiệm tại đảo Moheli, thuộc quần đảo Comoros ở cửa phía bắc eo biển Mozambique. Vào giữa tháng 11/2007, toàn bộ 36.000 cư dân trên đảo trải qua cuộc thử nghiệm dùng hai đợt thuốc chống sốt rét nhằm vào ký sinh trùng trong cơ thể. Lý do căn bản ở chỗ, muỗi chỉ là vật truyền bệnh từ người này sang người khác, chứ không phải là vật chủ. Nguồn chứa bệnh dịch thực tế là con người, rất nhiều người mang ký sinh trùng trong cơ thể mà không hề có biểu hiện gì. "Căn bản là tiêu diệt mầm bệnh, có ở con người, không có nguồn bệnh này, vật truyền bệnh vô tác dụng”, ông Lí khẳng định. Kết quả thu được rất đáng chú ý. Trong khi tỉ lệ người mang KSTSR tại Moheli ở mức từ 5-94% từ làng này tới làng khác trước cuộc thử nghiệm, thì sau đó, nó đã giảm xuống còn 1% hoặc ít hơn kể từ tháng 1/2008 và giữ nguyên cho tới giờ. "Trước đây, 70 - 80% bệnh nhân nhập viện do sốt rét. Sau đó, khó có thể tìm thấy người nào mắc bệnh”, ông Lí nhấn mạnh. Comoros giờ đây cấm bất cứ ai vào Moheli nếu họ không trải qua đợt dùng thuốc chống sốt rét - một hợp chất của Artemisinin, Primaquine và Pyrimethamine mà Trung Quốc cung cấp miễn phí. Chính quyền địa phương cũng đề nghị Bắc Kinh mở rộng chương trình ở 2 đảo lớn hơn Grande Comore và Anjouan, với tổng dân số khoảng 760.000 người. Ông Lí cho biết, Trung Quốc ủng hộ ý tưởng này trên nguyên tắc và đang cân nhắc cung cấp chi phí cho hoạt động.
Hàng chục nghìn người chết vì thuốc giả mỗi năm
Châu Á được xem như một "ổ dịch thuốc giả", và tình trạng này ngày một lan rộng. Trong một cuộc lấy mẫu gần đây ở Đông Nam Á, 53% thuốc chữa sốt rét là giả mạo. Ngoài ra là thuốc kháng sinh, thuốc chữa lao, AIDS và cả văcxin viêm màng não. Ước tính số người chết do dùng những loại thuốc này lên đến cả chục nghìn người đến 200.000 người mỗi năm. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) phỏng đoán rằng 1/5 trong số 1 triệu ca tử vong vì sốt rét hằng năm có thể ngăn ngừa được nếu tất cả các loại thuốc là thực và được uống hợp lý. "Ảnh hưởng đến sự sống con người đằng sau những số liệu này là rất khủng khiếp", tiến sĩ Howard Zucker, giám đốc dược và công nghệ y tế của WHO, nhận định.
Trên bình diện quốc tế, mục tiêu hàng đầu của những kẻ giả mạo hiện nay là Artemisinin, vị cứu tinh mới nhất của bệnh sốt rét, tiến sĩ Paul Newton, từ Trung tâm y học nhiệt đới của Đại học Oxford ở Vientiane, Lào cho biết. Nhóm của ông đã phát hiện thấy hơn một nửa các thuốc chữa sốt rét mà nhóm mua được ở Đông Nam Á là giả. Một tổ chức từ thiện làm việc ở Myanmar đã mua 100.000 viên thuốc và nhận thấy tất cả chúng đều vô ích. Trung Quốc là quê hương của hầu hết các loại thuốc giả trên thế giới, các chuyên gia tuyên bố. "Vấn đề này phổ biến đến mức không có quy định pháp lý nào có thể ngăn chặn nó", David Fernyhough, một chuyên gia về thuốc giả tại Cơ quan Hill & Associates, Hồng Kông, một công ty được các tập đoàn phương Tây thuê để chống lại những kẻ làm giả thuốc, cho biết.
Mạng lưới phân phối của chúng, ông nói "lặp lại đúng như các hệ thống phân phối heroin trước kia". Một chuyên gia khác thì cho biết thuốc giả sản xuất tại Trung Quốc hầu hết để xuất khẩu, bởi trong nước các loại thuốc này bị truy lùng ráo riết. Rất nhiều thuốc giả mà nhóm của Newton tìm thấy giống y như thuốc thật, và kiểu bắt chước của chúng cũng "ranh ma" hơn nhiều so với phỏng đoán của các nhà điều tra. Chẳng hạn, có những loại thuốc còn in cả chữ chìm giống như thuốc thật, chỉ xuất hiện dưới ánh sáng cực tím. Một số thuốc giả chứa những loại đá, tinh bột hay hương vị vô hại, song còn có loại còn khiến cho bệnh nhân cứ ngỡ rằng thuốc đã có tác dụng. Một số loại thuốc có chứa acetaminophen, có tác dụng hạ sốt tạm thời, nhưng không giết được ký sinh trùng sốt rét. Số khác lại chứa chloroquine, một loại thuốc sốt rét cổ nay hầu như không còn tác dụng chữa bệnh. Cũng có những thuốc chứa artemisinin thật, song với lượng không đủ để chữa bệnh, mà chỉ đủ để tạo dương tính giả trên que thử.
Điều đáng lo ngại là những thuốc giả nói trên góp phần tăng khả năng kháng thuốc của ký sinh trùng sốt rét, vì thế nếu bệnh nhân may mắn nhận được thuốc thật về sau, họ cũng có thể đã phát triển thành bệnh nan y mà chết. Những chủng bệnh kháng thuốc có thể truyền từ người này sang người khác qua muỗi và cuối cùng thì thuốc hoàn toàn vô tác dụng, như đã từng xảy ra với chloroquine và Fansidar, hai loại thuốc chữa sốt rét trước kia. Quỹ phòng chống AIDS, lao và sốt rét toàn cầu đã đưa tiền trực tiếp cho các nước nghèo để tự mua lấy thuốc và sau đó gửi các điều tra viên đến. Song 80% các quốc gia trên thế giới, theo phỏng đoán của các chuyên gia dược, thiếu các cơ quan có đủ khả năng để phát hiện ra những loại thuốc giả mạo phức tạp.
Bệnh sốt rét hiện vẫn là mối lo của 108 quốc gia
Trong báo cáo năm 2009 về bệnh sốt rét trên toàn cầu công bố ngày 16/12, WHO lưu ý dịch bệnh này vẫn lan rộng ở 108 nước mặc dù trong chiến dịch toàn cầu để loại bỏ căn bệnh này nhiều thập kỷ qua được đánh giá là thành công với hơn 1/3 số nước giảm được 50% số người bị sốt rét. Tổng giám đốc WHO - Margaret Chan nhấn mạnh, thế giới đang tiến dần tới mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về loại trừ bệnh sốt rét nhưng vẫn cần nỗ lực lớn hơn nữa để đảm bảo thành công, trước hết là ở châu Phi và các nước có số người mắc bệnh cao. Trong 243 triệu ca bệnh sốt rét trên toàn cầu được ghi nhận năm 2008, số tử vong lên tới 863 nghìn người trong đó 90% là ở châu Phi. Tổng Giám đốc WHO kêu gọi các nước phát triển thực hiện các cam kết tại Hội nghị cấp cao Liên hợp quốc tăng viện trợ phát triển về y tế cho các nước đang phát triển. Số tiền tài trợ cho chiến dịch này đã tăng gấp đôi từ 730 triệu USD năm 2006 lên 1.7 tỷ USD năm 2009, nhưng vẫn cần tới 5 tỷ USD mỗi năm nhằm đáp ứng nhu cầu về màn tẩm thuốc chống muỗi, thuốc điều trị và các nhu cầu khác.
Bước tiến mới về thuốc để điều trị sốt rét
Các nhà khoa học thuộc Đại học York đã giải mã thành công bản đồ gien của cây ngải tây hay còn gọi là thanh hao hoa vàng (Artemisia annua L.). Đây là loại thảo dược cung cấp hoạt chất chống bệnh sốt rét hữu hiệu đang được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Biệt dược Artemisinin chiết xuất từ cây ngải tây rất hiệu quả. Nhưng, sản lượng cây Artenisia annua thì lại quá thấp cho nên không thể cung ứng đủ số lượng để sản xuất dược phẩm ở mức độ cao hơn. Vì vậy, khi được tài trợ của quỹ Bill và Melinda Gates, các nhà khoa học đã bắt tay thực hiện việc giải mã bản đồ gien của cây Artemisia annua L..Thành công này sẽ giúp trồng Artemisia annua dễ dàng trong các nhà kính, rút ngắn thời gian sinh trưởng và sản lượng sẽ được tăng lên đáng kể, nhờ đó sản xuất đủ hoạt chất chế biến thành dược phẩm chống bệnh sốt rét.
Theo báo Telegraph thì chỉ 2-3 năm nữa việc nghiên cứu sẽ kết thúc để chuyển sang giai đoạn sản xuất đại trà trên các nông trại. Điều này không chỉ phục vụ tốt hơn cho hàng trăm triệu bệnh nhân sốt rét mà còn mang lại lợi ích kinh tế cho nông dân ở các nước đang phát triển.
Một cuộc tấn công mới vào bệnh sốt rét
Tại một hội nghị khoa học ở Seattle, Quỹ Bill và Melinda Gates đã đưa ra một nhiệm vụ khó khăn cho cộng đồng y tế quốc tế. Các nhà lãnh đạo này của hội từ thiện giàu nhất thế giới đã kêu gọi các nhà khoa học và các quan chức y tế nhằm tham gia trong một cố gắng toàn cầu để thanh toán bệnh sốt rét, một bệnh gây chết trên 1 triệu người mỗi năm, hầu hết là trẻ em.
Hãy đề cập đến việc tiêu diệt sốt rét sẽ có thể được thực hiện, thậm chí lòng nhiệt thành và cấp vốn để xây dựng cho một cuộc chạy đua toàn cầu để chấm dứt những cái chết do bệnh sốt rét gây ra ở khu vực cận sa mạc Sahara châu Phi bằng cách nhằm vào việc phòng ngừa và điều trị bệnh sốt rét, đây có thể là một bước đầu tiên đầy tham vọng mà sẽ có một tác động to lớn lên y tế công đồng. Sáng kiến nhiều tỷ USD mà Tổng thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki-Moon đã công bố vào tháng tư năm nay, người ta ước vọng bởi những thành tựu đã đạt được trong việc chống bệnh sốt rét ở các nước như Rwanda và Ethiopia, nơi mà các chương trình quốc gia được các nhà tài trợ quốc tế cấp một số vốn lớn, đã từng giảm bệnh sốt rét và giảm chết do sốt rét gần 60% trên một giai đoạn 2-3 năm qua việc sử dụng màn tẩm thuốc diệt muỗi, test chẩn đoán nhanh và phối hợp điều trị. Bây giờ Plasmodium falciparum, loài ký sinh trùng sốt rét gây chết nhiều nhất, là một kẻ thù khủng khiếp hơn nhiều so với virus bệnh đầu mùa và virus gây bại liệt, các virus này là các đích tiêu diệt của các chiến dịch toàn cầu trước đây.
WHO định nghĩa việc tiêu diệt một bệnh khi giảm tỷ lệ mới mắc đến mức zero bền vững trên toàn thế giới của một tình trạng nhiễm bệnh do một tác nhân cụ thể gây ra, tạo kết quả từ giới hạn thời gian, mọi cố gắng được tính cẩn trọng. Sự tiêu diệt một bệnh được định nghĩa khi giảm tỷ lệ mới mắc của bệnh đến mức số không trong một vùng địa lý được xác định. Vì các loài muỗi Anopheles với tiềm năng lây truyền bệnh duy trì sự hiện hữu không đổi sau khi KSTSR được tiêu diệt ở vật chủ người, các nước vẫn phải dùng các biện pháp như giám sát đối với các trường hợp di dân hoặc là những người đến du lịch, cũng như việc cung cấp chẩn đoán nhanh và điều trị hiệu quả, nhằm phòng ngừa việc tái nhiễm. Cộng đồng sốt rét được phân chia một cách rõ ràng, trên đó hoặc là tiền bạc và cố gắng sẽ được tiêu tốn cho việc thu nhỏ bản đồ sốt rét thế giới bằng cố gắng để loại trừ sốt rét ở các khu vực nơi đó sự truyền bệnh thấp hay là các dự án như thế sẽ làm rối thêm cho việc giảm đi tổn thất cho các nước ở châu Phi nơi đó sự truyền bệnh mạnh mẽ mang lại cho sự loại trừ bệnh không thể thực hiện nhưng ở nơi sự mở rộng khu vực về phòng ngừa và điều trị có thể giảm tỷ lệ mới mắc bệnh lâm sàng gần 90% hoặc cao hơn nữa. Regina Rabinovich, giám đốc các sáng kiến bệnh nhiễm trùng của quỹ Bill và Melinda Gates Foundation đã phát biểu, việc tiêu diệt sốt rét toàn cầu được phán đoán là không thể thực hiện với các công cụ hiện nay. Tuy nhiên, bây giờ “trừ khi bạn nghĩ và lo lắng" về sự tiêu diệt bệnh một cách lâu dài "và về công cụ nào mà bạn sẽ cần đến, chứ bạn không thể ràng buộc cộng đồng khoa học về những loại công cụ nào sẽ được chọn lựa."
Tất cả dữ liệu về những vùng lây truyền sốt rét và vùng kháng thuốc sốt rét, dữ liệu về truyền bệnh sốt rét năm 2007 (WHO), dữ liệu về kháng thuốc năm 2004 (Quan hệ đối tác đẩy lùi bệnh sốt rét). Lịch sử lột bỏ một bóng mờ bao phủ bất cứ cuộc bàn thảo nào về tiêu diệt bệnh sốt rét; 50 năm qua, cố gắng tiêu diệt bệnh sốt rét được phối hợp lần đầu tiên của thế giới, các nhân viên y tế công cộng chiến đấu chống sốt rét hơn một thập kỷ với thuốc diệt côn trùng dichlorodiphenyltrichloroethane (DDT) và thuốc điều trị chloroquine. Chúng đã loại trừ sự nhiễm bệnh ở 24 nước và giúp 1 tỷ người tránh khỏi nguy cơ sốt rét. Tuy nhiên, sự xuất hiện muỗi đề kháng với ĐT và ký sinh trùng kháng Chloroquine dẫn đến sự tái xuất các vụ dịch sốt rét ở nhiều nước, nơi mà bệnh gần như đã từng được chế ngự. Tuy nhiên, chiến dịch chưa bao giờ thực hiện ở các nước châu Phi nhiệt đới với sự lây truyền bệnh rất mạnh mẽ, nơi đó chừng 90% trường hợp chết do sốt rét đã xảy ra. Nhìn rộng ra như một sự thất bại, tiếp tục tê liệt gần hàng chục thập kỷ trong việc đối mặt với cái chết tăng lên. Donald Hopkins, phó chủ tịch về các chương trình y tế của Trung tâm Carter đã phát biểu "Trong những vòng lẫn quẩn của y tế công cộng quốc tế, đó vẫn là một sự ghi nhớ có sức thuyết phục mạnh mẽ”.Lạ thay, phản ứng với sự kêu gọi một chiến dịch tiêu diệt sốt rét toàn cầu mới đã từng được phối hợp. Thậm chí, vấn đề bàn thảo là chọn lựa KSTSR đích để can thiệp, vì nhiễm sốt rét ở người có thể do 4 loài ký sinh trùng gây ra, mặc dầu chỉ P. falciparum và P. vivax mới tạo ra bệnh cảnh lâm sàng có ý nghĩa. Phổ lâm sàng rộng rãi của chừng 500 triệu trường hợp sốt rét hàng năm, nhiều trường hợp bệnh nhân không triệu chứng hoặc gây bệnh cảnh lâm sàng tương đối nhẹ. Hopkins đã phát biểu: “thậm chí bạn không thể tiêu diệt tất cả các loài KSTSR sốt rét” gây nhiễm bệnh cho người, “thì cũng vẫn là rất, rất tốt để loại bỏ P. falciparum”, tác nhân gây chết trẻ con và trẻ em châu Phi. Một số chuyên gia, cả Rabinovich, cũng thích chọn đích can thiệp là P. vivax, mặc dầu khả năng của KSTSR này tồn tại trong tế bào gan làm cho việc nhiễm KSTSR khó khăn hơn để chữa khỏi tận gốc. Nhưng Arata Kochi, chủ tịch Chương trình sốt rét toàn cầu của WHO chắc rằng "để đi đến việc tiêu diệt sốt rét ở thời điểm này là không hữu ích". Kochi đã nói rằng một mục tiêu khởi đầu tốt hơn, thông qua việc phòng ngừa và điều trị, “để làm cho sốt rét trở thành một vấn đề nhỏ đi” ở các nước nơi đó bây giờ nó là một tai hoạ chính (a major scourge). Carlos C. (Kent) Campbell, giám đốc Kiểm soát bệnh sốt rét và Đối tác đánh giá ở châu Phi (Malaria Control and Evaluation Partnership in Africa: MACEPA) tại chương trình về Kỹ thuật thích hợp trong Y tế (Program for Appropriate Technology in Health: PATH) đã phát biểu, lấy ví dụ, ở Zambia, nơi mà quỹ Gates và các nhà tài trợ khác đã bắt đầu cấp vốn 3 năm rồi cho một cố gắng quốc gia để đạt đến 80% dân số với các biện pháp phòng ngừa, "thực đúng như vậy, các bệnh phòng không có bệnh nhân mắc sốt rét" suốt mùa mưa trong năm. Kochi tin rằng với sự cấp vốn quốc tế như được mong đợi, thì những cái chết do sốt rét P. falciparum gây ra ở châu Phi nhiệt đới chẳng bao lâu có thể giảm đến mức nhiều chừng 90%, thậm chí ở những nước như Nigeria và Cộng hoà dân chủ Congo, nơi các điều kiện chính trị hoặc chính quyền bất ổn đã đặt ra những nhiệm vụ khó khăn đối với những cố gắng cho y tế công cộng khác. Kochi đã dự đoán, sự giảm tỷ lệ tử vong trong một vùng rộng rãi, nhanh chóng "là một bối cảnh rất thích hợp-điều sẽ xảy ra trong vòng 3 đến 5 năm tới".
Richard Feachem, giám đốc Viện Sức khoẻ toàn cầu ở Đại học California (San Francisco và Berkeley) đã phát biểu, bên cạnh việc tăng cường làm giảm tỷ lệ tỷ vong ở các nước gặp phải những vấn đề khó khăn nhất, các quan chức của WHO và nhiều chuyên gia sốt rét hổ trợ mọi cố gắng để loại trừ sự lây nhiễm ở các nước nơi đó sự động viên chính trị, các nguồn lực sẵn có, và mật độ của sự truyền bệnh tương đối thấp làm cho một mục tiêu như thế có thể khả thi. Việc thực hiện một chương trình loại trừ sốt rét đang được tiến hành ở Papua New Guinea, Vanuatu, và quần đảo Solomon, và một chương trình đầu tư đang được chính quyền các Nam Phi, Namibia, Botswana, và Swaziland lập kế hoạch. Feachem cũng phát biểu rằng, Trung Quốc, nước có bệnh sốt rét do P. falciparum và P. vivax lưu hành trong một số tỉnh phía nam và những vụ dịch có tính chu kỳ do P. vivax xảy ra ở đâu đó, cũng đang cân nhắc xây dựng một chương trình loại trừ sốt rét.
Tuy nhiên, một số chuyên gia lo lắng rằng là tiền bạc cho việc loại trừ bệnh sốt rét có thể bị lãng phí ở các nước có các nước lân cận có sự lây truyền bệnh nặng mà các hệ thống chăm sóc y tế bất lực. Đầu năm nay, ở Thái Lan, một nước đã giảm mật độ bệnh sốt rét của họ một cách đáng kể, tôi đã viếng thăm một bệnh viện gần biên giới ở đó các bác sĩ đang điều trị một luồng các trường hợp bệnh sốt rét ở các công nhân di cư từ Myanmar, ở đó các chương trình y tế hầu như không có. Brian Greenwood, giáo sư y học nhiệt đới của trường Đại học Y học nhiệt đới và Vệ sinh Luân Đôn đã phát biểu “không thể chiến đấu" nhằm cố gắng loại trừ bệnh sốt rét ở các nước “nơi mà bạn luôn luôn gặp mặt kẻ thù quanh bạn”. Ông nói "Sẽ không dễ dàng để ngăn chặn sự lây truyền bệnh” mà nó lây lan qua các biên giới. Kochi nhấn mạnh rằng loại trừ bệnh số rét ở Đông Nam Á sẽ có được những lợi ích toàn cầu vì ký sinh trùng kháng thuốc thường tiến hoá đầu tiên ở đó, nhưng ông cũng nhấn mạnh thêm rằng vì vectơ truyền bệnh ở đó đốt người ngủ ngoài trời trong rừng, đó là khó khăn để kiểm soát bệnh sốt rét với việc nằm màn và phun thuốc tồn lưu trong nhà. Ông nói “chúng ta không biết liệu chúng ta có thể làm được điều đó không.” Việc cấp vốn quốc tế dành cho phòng chống sốt rét đã từng tăng lên rất lớn - đến chừng 1 tỷ đô la mỗi năm, từ bằng chừng 84 triệu đô la Mỹ hàng năm cuối những năm của thập kỷ 1990, nhưng chiến dịch tiêu diệt sốt rét toàn cầu sẽ đòi hỏi tăng thêm hơn nhiều. Thậm chí việc hoàn thành bao phủ toàn bộ với các biện pháp phòng ngừa và điều trị trong những nước châu Phi gặp phải khó khăn nhất sẽ phải chi chừng 2.2 tỷ đô la mỗi năm trong vòng 5 năm, theo một phân tích mới đây. Trong năm 2005, Hội đồng Y tế thế giới đã kêu gọi các nước thành viên thiết lập kế hoạch vận hành nhằm giảm gánh nặng sốt rét toàn cầu ít nhất gần 50% đến gần năm 2010 và 75% gần năm 2015; đạt đến những mục đích này sẽ phải chi phí ước chừng ít nhất từ 3.8 tỷ đến 4.5 tỷ USD mỗi năm giữa khoảng thời gian bây giờ đến năm 2015. Một chiến dịch tiêu diệt sốt rét toàn cầu nhiều thập kỷ sẽ cần đến những đầu tư phụ trợ thêm để việc phòng ngừa và điều trị bệnh được tiếp tục một cách liên hoàn; nghiên cứu những thuốc mới, vaccine, các công cụ chẩn đoán và thuốc diệt muỗi, và tiếp tục sự giám sát.
Một động cơ thúc đẩy cốt lõi đối với những nhà tài trợ và quan chức y tế rằng là công cụ kinh tế của sốt rét, dưới dạng chi phí điều trị và sản phẩm trong sản xuất mất đi, sẽ giảm đi nếu như bệnh sốt rét được kiểm soát, nhưng Greenwood cảnh báo rằng sự hứng khởi chính trị sẽ là khó khăn hơn để duy trì tính bền vững một khi tỷ lệ trường hợp bệnh giảm xuống. Ông cũng nhấn mạnh, “ý tưởng rằng bạn có một sự đầu tư lớn trong việc loại trừ sốt rét và rồi toàn bộ tất cả các chi phí sẽ giảm xuống - điều mà chắc rằng là không hiện thực cho đến khi bạn đạt được việc loại trừ bệnh sốt rét”. Ông Hopkins của trung tâm Carter nhấn mạnh, nhiệm vụ gay go lớn nhất với việc tiêu diệt sốt rét toàn cầu là rằng sốt rét được bám chặt nhất ở vùng nơi đó hạ tầng cơ sở y tế công cọng là yếu nhất. Ông Hopkins cũng nhấn mạnh, một bài học đắng cay của các chiến dịch tiêu diệt bệnh sốt rét trước đây rằng là “bạn cần để bắt đầu ở những nơi, tại đó vấn đề đã trở nên tồi tệ, bởi vì hầu như bằng sự xác định là nó sẽ mất thời gian lâu nhất” để đạt được sự thành công ở đó. "Nếu bạn từ bỏ nó thì cuối cùng, thì bạn không thể mua trở lại thời gian”.
Có một sự thống nhất rộng rãi rằng tiêu diệt sốt rét toàn cầu do P. falciparum gây ra là vấn đề không thể với các vũ khí hiện hành, chúng chỉ hơi khác một chút so với các vũ khí thời những thập niên 1950: chủ yếu, một thuốc diệt côn trùng (các hợp chất Pyrethroid được dùng để tẩm màn) và một thuốc điều trị sốt rét, người ta cho là như một phần của điều trị phối hợp), mặc dầu DDT và một số ít các thuốc diệt côn trùng khác đôi khi lại được sử dụng. Sự đề kháng các hổn hợp Pyrethroids đã từng xuất hiện trong một số quần thể muỗi ở châu Phi, và đề kháng với Artemisinin có thể đang xuất hiện ở gần biên giới Thái Lan - Cambodia. Nếu sự đề kháng với các hợp chất này lan ra nhanh hơn việc các nhà nghiên cứu khám phá ra những thuốc mới, thì mọi cố gắng kiểm soát bệnh sốt rét đạt được các thành tựu sẽ chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn mà thôi. "Đây là một mối quan tâm chính của tôi: chúng ta có thể duy trì các công cụ hiệu lực hiện hữu trong bao lâu,” ông Kochi của WHO nói, người mà đã phê bình về các thuốc miễn chi trả đối với việc Đầu tư cho bệnh Sốt rét, được quỹ Gates và các nhà tài trợ khác cấp tiền, đối với việc theo đuổi một cách mạnh mẽ việc phát triển thuốc thay thế artemisinin. "Tuyến đường" dành cho các thuốc chống sốt rét mới và thuốc diệt côn trùng mới “là rất chậm”, ông nói. "Một cách cơ bản là chưa từng có một hoá chất nào được phát hiện ra trong vòng ít nhất 15 năm."
Rabinovich của quỹ Gates đã nói rằng hiện nay quỹ đang đầu tư cho việc khám phá và phát triển thuốc mới. "Ngay bây giờ dễ dàng có được 20 đến 25 thuốc đang được chuẩn bị," "Có một lổ hổng trong đó cái gì sẽ đến đối với giai đoạn 2 và 3, nhưng rằng vì không có bất cứ tuyển thủ nào vượt qua được thử thách đó" ngay khi mà sáng kiến đã bắt đầu. Bà ta thêm rằng quỹ Gates cũng đang cấp tiền bạc cho nghiên cứu thuốc diệt côn trùng, cũng như thuốc sốt rét và các vaccines được thiết kế để ngăn chặn sự lây truyền bệnh sốt rét từ một người nhiễm đến các vật chủ phụ, bằng cách diệt thể KSTSR hữu tính trong dòng máu hoặc ngăn cản sự trưởng thành của KSTSR trên muỗi.
Việc loại trừ bền vững sự truyền bệnh sốt rét ở các vùng dịch lưu hành có thể phải chờ đợi một số các thuốc điều trị mới và thuốc diệt côn trùng mới và có lẽ, đối với một vaccine có hiệu lực cao. Một vaccine các chất sinh học được Glaxo SmithKline phát triển hiện đang được đánh giá trong các thử nghiệm ở châu Phi, có thể có mặt trên thị trường gần vào năm 2012 nhưng hình như hiệu lực chỉ đạt được < 50% trong việc phòng nhiễm, mặc dầu nó có thể làm giảm độ nghiêm trọng trên lâm sàng. Christian Loucq, lãnh đạo của chương trình toàn cầu về sáng kiến vaccine sốt rét PATH do Gates cấp vốn nói rằng, các nhà nghiên cứu “sẽ tiếp tục duy trì công việc đến vaccine thế hệ mới”, ông cũng nói rằng “Chúng ta sẽ có thể phát triễn một vaccine hiệu lực hơn 80% hoặc 85% - là một công cụ mà chúng ta cần đến”. Thậm chí với các công cụ hiệu lực mới và việc thành công tiêu diệt bệnh ở khu vực, các chuyên gia ước lượng rằng việc tiêu diệt sốt rét do P. falciparum và P. vivax có thể phải mất 50 năm hoặc lâu hơn nữa. Hopkins nói rằng, các chiến dịch tiêu diệt sốt rét trong quá khứ đã từng dạy cho chúng ta rằng “luôn luôn sẽ khó khăn hơn và mất nhiều thời gian hơn bạn nghĩ”. Nhưng Greenwood nêu lên bài học khác về chiến dịch tiêu diệt sốt rét của một nữa thế kỷ qua: “Đừng đánh trống bỏ dùi”.
OZ 277 – một ứng cử viên thuốc sốt rét tương lai
Báo cáo khoa học đăng tải trên tạp chí Nature đưa tin về nhóm khoa học gia quốc tế đã phát triển loại thuốc trị sốt rét nhái theo các phương pháp đông y của Trung Quốc. Giới y khoa hy vọng là OZ277 sẽ có tác dụng như Artemisinin nhưng sẽ vừa túi tiền. Việc tìm kiếm một loại thuốc chống sốt rét hữu hiệu và rẻ tiền đã kéo dài suốt bao nhiêu thập niên và nhờ vào sự hợp tác giữa các phòng thí nghiệm và các công ty dược phẩm hàng đầu trên thế giới, một loại thuốc mới có thể đã được ra đời.
Được gọi là OZ277, loại thuốc này được tin là sẽ hoạt động như artemisinin, loại thuốc chống sốt rét tốt nhất hiện tại. Dựa trên đông y Trung Quốc, thuốc đã được sử dụng trên một ngàn năm trăm năm và muỗi sốt rét vẫn chưa phát triển hệ thống kháng cự lại loại thuốc này. Nhưng chiếc thuốc này từ cây là không có hiệu quả và khá tốn kém, do đó thuốc khá đắt. Nó hoạt động khá tốt đối với động vật và giờ thì được thử nghiệm lên người tại Anh Quốc để bảo đảm là thuốc an toàn. Thuốc được các khoa học gia từ ngành y dược và khu vực công cộng phát triển và các liều lượng thuốc sử dụng trong các cuộc thử nghiệm là do công ty y dược Ranbaxy của Ấn Độ sản xuất. Nếu thành công, nghiên cứu này sẽ giúp hai tỉ người có nguy cơ bị sốt rét có được thuốc rẻ, dẽ sử dụng và tiêu diệt được muỗi gây sốt rét.
Hợp chất KP-15: một chất tổng hợp mới diệt ký sinh trùng sốt rét
Các nhà khoa học Canada vừa công bố, đã tổng hợp được một chất có thể diệt ký sinh trùng sốt rét, kể cả dòng kháng thuốc. Phát hiện này có ý nghĩa lớn trong việc chống lại bệnh sốt rét đang hoành hành ở 105 nước trên thế giới. Sử dụng kỹ thuật đa ngành, các nhà khoa học Canada đã thành công trong việc tổng hợp một chất có khả năng tiêu diệt ký sinh trùng sốt rét, mở ra triển vọng mới trong việc điều trị căn bệnh nguy hiểm này. Trong một nghiên cứu được công bố trên Journal of Medicinal chemistry, các chuyên gia cho biết, họ đã tạo ra được một hợp chất có khả năng tìm và diệt ký sinh trùng sốt rét, kể cả ký sinh trùng thuộc những dòng kháng thuốc. Tên KP-15, hợp chất nhân tạo này đã được thử nghiệm thành công trong phòng thí nghiệm với nhiều dòng KSTSR gây bệnh rốt rét ở người, kể cả Plasmodium falciparum – một dòng kháng đa thuốc gây ra một dạng sốt rét nguy hiểm nhất.
Theo kết quả nghiên cứu, sau khi thâm nhập vào ODCase (Orotidine monophosphate decarboxylase), một enzyme rất quan trọng cho sự tồn tại và tái tạo của KSTSR, KP-15 sẽ ức chế hoạt động của enzyme này, từ đó ký sinh trùng sẽ bị tiêu diệt. Hợp chất KP-15 được tạo ra bằng cách áp dụng kỹ thuật đa ngành như tinh thể học X-quang (X-ray Crystallography), tạo mẫu trên máy vi tính và hóa y học. Sử dụng kỹ thuật tinh thể học X-quang (một kỹ thuật trong tinh thể học, trong đó mẫu được tạo ra do sự nhiễu xạ của các tia X), các chuyên gia sẽ ghi nhận và phân tích các mẫu được chụp để xác định cấu trúc 3 chiều của KP-15 đang hoạt động trong enzyme của ký sinh trùng. Sau đó, dựa trên đặc điểm của những cấu trúc 3 chiều này, các chuyên gia sẽ sử dụng công cụ tạo mẫu vi tính để thiết lập công thức thuốc chống sốt rét.
Trưởng nhóm nghiên cứu-tiến sĩ Lakshmi Kotra, chuyên gia phân tử - tế bào của Viện Nghiên cứu tổng hợp Toronto, đồng thời là giám đốc Trung tâm thiết kế - cấu tạo phân tử thuộc Bệnh viện đa khoa Toronto và giảng viên dược học - hóa học của trường đại học Toronto. Các cộng sự của tiến sĩ Kotra gồm có giáo sư tiến sĩ Emil Pai thuộc Viện Ung thư ontario, bác sĩ Kevin Kain, giám đốc Trung tâm Sức khỏe toàn cầu McLaughlin-Rotman và một số nhà khoa học khác. Tiến sĩ Kotra phát biểu: “Công trình nghiên cứu này mở đường cho việc tạo ra một loại thuốc mới chống bệnh sốt rét. Chúng tôi có đủ kiến thức chuyên môn sâu rộng và công nghệ tinh vi để tạo ra những hợp chất có khả năng tìm diệt enzyme của ký sinh trùng”. Ông nhấn mạnh: “Việc tạo ra hợp chất này có ý nghĩa rất quan trọng vì đây là lần đầu tiên ký sinh trùng sốt rét bị tấn công và tiêu diệt bởi một hợp chất nhân tạo”.
Tuy nhiên, theo ông, nhóm nghiên cứu cần có thời gian chuẩn bị từ 3-5 năm trước khi thực hiện những thử nghiệm lâm sàng trên con người. Theo tiến sĩ Kain, “công trình này là một bước đột phá đáng phấn khởi, mở ra bước đầu tiên trong việc sản xuất thuốc mới chống sốt rét. Đó cũng là một ví dụ tiêu biểu cho sự phối hợp giữa các nhà khoa học thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau trong việc tìm ra một giải pháp sáng tạo để đối phó với những bệnh nguy hiểm nhất". Giáo sư Richard Weisel, giám đốc Viện nghiên cứu tổng hợp Toronto, phát biểu: “Nghiên cứu này biểu thị một hướng đi mới đáng ngạc nhiên trong việc tìm kiếm giải pháp trị liệu. Việc đánh giá cấu trúc protein và gen bất thường để lập công thức thuốc là phương pháp mới mà chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu để điều trị những bệnh hiểm nghèo”. Bệnh sốt rét hiện được ghi nhận tại trên 105 quốc gia. Hàng năm, toàn thế giới có khoảng 500 triệu người bị mắc bệnh này và hơn 1 triệu người tử vong.
Tại Canada, nơi nghiên cứu này được thực hiện, số bệnh nhân sốt rét hàng năm dao động từ 364 đến 1.029 người trong giai đoạn 1990 - 2002, khiến nước này có tỉ lệ sốt rét bình quân đầu người cao gấp 3-10 lần so với Mỹ. Đây cũng là một trong những nước có tỉ lệ nhiễm bệnh cao nhất trong số các nước phát triển. Theo nhóm nghiên cứu, tình trạng nhiễm bệnh sốt rét trên phạm vi toàn cầu đã gia tăng trong hơn 2 thập kỷ qua và sẽ còn tiếp tục tăng vì những nguyên nhân như: sự bùng nổ du lịch toàn cầu; dân số nhập cư ngày càng tăng ở nhiều nước; ký sinh trùng kháng thuốc đang phát triển; và những thay đổi bất lợi về môi trường, khí hậu và sinh thái.
Thay đổi môi trường bằng cách sử dụng tất cả mọi thứ từ xẻng và cày đến các loại thuốc trừ sâu có nguồn gốc thực vật có thể đóng vai trò như màn và tiêm chủng trong cuộc chiến chống lại sốt rét, theo một phân tích máy tính của các nhà nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu đã phát triển một mô hình máy tính mới để phân tích những phương pháp kiểm soát sự lan rộng của sốt rét, một trong những căn bệnh có tác hại trầm trọng nhất trên thế giới. Những phát hiện của họ cho thấy những biện pháp môi trường ví dụ như san bằng đất để loại bỏ những chỗ lõm có thể hình thành những vũng, ao có thể là một phần quan trọng trong chiến lược kiểm soát loại bệnh này.
Báo cáo về nghiên cứu, do giáo sư kỹ thuật môi trường Elfatih Eltahir và nghiên cứu sinh Arne Bomblies và Rebecca Gianotti thực hiện, được trình bày trong cuộc họp của Hiệp hội Địa vật lý Hoa Kỳ tại San Francisco. Eltahir giải thích “Sốt rét là thách thức mang tính toàn cầu” gây ra 1/3 những ca tử vong ở trẻ em dưới 15 tuổi. Bằng cách phát triển phần mềm mới nhằm phân tích tác động của những phương pháp hạn chế sự lan rộng của sốt rét, bao gồm chuỗi chuyển giao phức tạp giữa ấu trùng, muỗi và con người, “chúng ta có thể đạt được những thành tựu đáng kể” trong việc kiểm soát căn bệnh này.
Trong khi hầu hết nỗ lực chống lại sốt rét tập trung vào khía cạnh con người, ví dụ như phát triển vaccxin, thì Eltahir cho biết những nỗ lực kiểm soát các yếu tố môi trường dự như loại bỏ những vùng đất thấp nơi ao hồ có thể hình thành trong mùa mưa, hoặc sử dụng vật liệu thực vật được trồng tại địa phương để hạn chế sự sinh trưởng của muỗi có thể có tác động đáng kể đến việc kiểm soát sự lan rộng của sốt rét và không giống những loại thuốc nhập khẩu đắt tiền, phương pháp như trên có thể dựa vào nỗ lực tại địa phương, đơn giản như kếu gọi người dân dùng xẻng để lấp đầy những chỗ lõm. “Bằng cách sử dụng những lao động và dụng cụ địa phương, phương pháp của chúng tôi không dựa vào những công nghệ cao từ bên ngoài”.
Thêm vào đó, mô hình máy tính hoàn chỉnh mới sẽ cung cấp một công cụ cho việc phân tích làm thế nào nguy cơ sốt rét của những khu vực khác nhau sẽ bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi khí hậu. Để kiểm tra tính chính xác của mô hình máy tính, nhóm nghiên cứu đã làm việc trong 4 năm qua tại một khu vực hẻo lạnh thuộc Niger, thuộc vùng sa mạc Sahel phía Bắc châu phi. Eltahir giải thích: “Châu Phi là điểm nóng về sốt rét, vì vậy công việc thực tế này cung cấp đánh giá xác thực về mô hình của chúng tôi”. Bomblies và những người khác đã kiểm tra tất cả các khái cạnh của vòng đời KSTSR, bao gồm xét nghiệm trong muỗi, nhận biết chính xác các loài muỗi (vì chỉ một loài nhất định chứa ký sinh trùng sốt rét) và lập biểu đồ địa hình cũng như kiểm soát kích thước và khoảng thời gian tồn tại của những vũng hoặc ao nơi muỗi sinh sản. Bomblies cho biết: “Chúng tôi thu thập thông tin có thể kiểm tra hiệu lực của mô hình chúng tôi đang phát triển”. Loại bỏ những vũng nước ứ đọng, hoặc tăng cường hệ thống thoát nước để những vũng nước như vậy tồn tại ít hơn 7 đến 10 ngày, khoảng thời gian muỗi trưởng thành, có thể là một chiến lược hiệu quả. Thêm vào đó, nó cho phép so sánh những phương pháp khác nhau. Lấp những chỗ lõm sử dụng xẻng, hoặc xới đất để nước có thể thấm vào đất nhanh hơn cũng là những cách hiệu quả để kiểm soát loại bệnh này. Đây không phải là ý tưởng mới, nhưng phần mềm mới cung cấp phương pháp định lượng để so sánh tác động của nó với các phương pháp khác và để phát triển những chiến lược cụ thể cho một khu vực nào đấy. Bomblies, người chỉ đạo nghiên cứu thực tế tại Niger trong 13 tháng, nhận định: Lấp đầy những vị thấp là một kỹ thuật đã có từ lâu. Tuy nhiên nó chưa hề được áp dụng riêng biệt cho một khu vực nào cả”.
Không giống những phương pháp khác như vaccine hoặc sử dụng màn, phương pháp của chúng tôi có tác động lâu dài. Các phương pháp khác mà nhóm đã nghiên cứu bao gồm việc trải rộng hạt giống của cây neem, một loại cây địa phương, trong những ao hồ. Việc làm này có thể làm giảm số lượng muỗi xuống 50%. Eltahir cho biết: “Đây là lần đầu tiên chúng tôi có một mô hình máy tính chi tiết về tất cả các yếu tố trong quá trình lan rộng của bệnh. Bằng cách chạy những mô phỏng chi tiết của nhiều chiến lược, chúng tôi có thể làm rất nhiều thứ, ở vùng này hoặc ở đâu đó, mà chúng tôi không thể làm được trong quá khứ. Nó cho phép chúng tôi làm việc theo cách tiết kiệm chi phí hơn”. Dự án được chương trình sức khỏe và con người của Cơ quan khí quyển và hải dương học quốc gia, và Quỹ khoa học quốc gia tài trợ.
Trong một nghiên cứu gần đây, các nhà khoa học đã chứng tỏ khám mắt bằng kính soi đáy mắt, một phương pháp nhanh chóng và rẻ tiền, có thể chẩn đoán được sốt rét ác tính thể não và nhờ đó có thể cứu sống được hàng ngàn người ở các vùng sốt rét.
Việc chẩn đoán sốt rét ác tính thể não - một biến chứng nặng của sốt rét do Plasmodium falciparum xâm nhập vào các mao mạch ở não có thể gặp khó khăn do bệnh nhân bị hôn mê và có một số bệnh lý khác. Hiện nay các nhà khoa học đã tìm thấy một số biến đổi ở võng mạc đặc trưng cho một số thể sốt rét ác tính. Phát hiện này sẽ giúp các thầy thuốc xác định một trẻ em bị sốt rét ác tính thể não hay do các bệnh lý khác, điều này giúp họ có được các quyết định điều trị phù hợp và nhanh chóng. Nhóm nghiên cứu do Nick Beare thuộc Đại học Liverpool đứng đầu đã phân tích võng mạc của 45 trẻ em sốt rét ác tính thể não nhập bệnh viện Blantyre ở Malawi. Họ đã phát hiện thấy những mảng trắng bạc và các mạch máu tại võng mạc có màu trắng bạc là những dấu hiệu đáng chú ý của SRATTN. Các dấu hiệu khác bao gồm xuất huyết võng mạc và phù gai thị.
Chẩn đoán này chỉ cần kính soi đáy mắt, một dụng cụ thường được sử dụng ở Phi châu trong nghiên cứu các bệnh về mắt. Beare cho biết việc chẩn đoán này yêu cầu phải qua đào tạo đặc biệt về khám mắt, nhưng nó tương đối đơn giản và đạt chi phí hiệu quả, điều này là cần thiết ở nơi kinh tế còn nghèo như châu Phi. Nhóm nghiên cứu của Beare cho rằng do KSTSR bám vào lớp nội mạc của các mạch máu nhỏ ở não và ở mắt, nên nó ngăn cản việc cung cấp oxy và các chất dinh dưỡng, gây nên màu trắng bạc đáng chú ý của mạch máu mắt.
Richard Idro thuộc Viện nghiên cứu y khoa Kenya cho rằng tính chất đặc hiệu của những biến đổi ở mắt giúp phân biệt giữa hôn mê do sốt rét hay hôn mê do các nguyên nhân khác. Các nhà nghiên cứu sẽ tiếp tục đánh giá khám phá này tại Gabon, Gambia, Ghana và Kenya. Nếu khám phá trên chứng tỏ hữu ích các thầy thuốc sẽ được huấn luyện để nhận ra các dấu hiệu này. Willis Akhwale, Vụ trưởng Vụ phòng chống sốt rét, Bộ Y tế Kenya đã hoan nghênh kết quả nghiên cứu, nhưng ông cũng lưu ý rằng việc kiểm định phương pháp để đảm bảo độ chính xác trong chẩn đoán là điều rất quan trọng để không phải kê đơn thuốc sốt rét cho những bệnh khác.
Làm thế nào để phòng chống bệnh sốt rét
Tuần qua tổ chức Y tế thế giới-WHO vừa công bố những hướng dẫn ngăn ngừa sự lạm dụng thuốc sốt rét và một số biện pháp mới nhất để chống lại sự đề kháng thuốc của KSTSR. WHO cũng cho hay ở khu vực biên giới Thái Lan – Cambodia đã có dấu hiệu cho thấy KSTSR kháng với thuốc artemisinin. Trước đây, hiện tượng “kháng thuốc” đối với những loại thuốc điều trị sốt rét thông dụng như Mefloquine, Chloroquine,… cũng xảy ra ở vùng này, sau đó mới lan sang châu Phi. Theo WHO việc phòng chống bệnh sốt rét trên toàn thế giới đã đạt được những tiến bộ lớn. Tuy nhiên, hiện nay vẫn có gần 250 triệu ca sốt rét được ghi nhận hàng năm, gây tử vong cho khoảng trên 850 triệu người hầu hết là trẻ em, chủ yếu ở khu vực phía Nam sa mạc Sahara, châu Phi. Bệnh sốt rét thường đi kèm với đói nghèo, lạc hậu và là một cản trở lớn đối với sự phát triển kinh tế. SR là bệnh truyền nhiễm gây ra bởi một loại ký sinh trùng tên Plasmodium, lây truyền từ người này sang người khác khi những người này bị muỗi Anopheles mang mầm bệnh đốt. Bệnh phổ biến ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Mỹ, châu Á và châu Phi. Triệu chứng của bệnh thường là sốt cao, ớn lạnh, đau đầu và toàn thân mỏi mệt, đặc biệt là vùng bụng và lưng. Đối với trẻ nhỏ khi sốt rét ảnh hưởng đến não, trẻ có thể bị co giật hoặc hôn mê. Do các triệu chứng ban đầu thường không rõ rệt và có thể bị lầm lẫn với các bệnh khác nên bệnh sốt rét khó được chẩn đoán. KSTSR sau khi xâm nhập vào cơ thể người sẽ đi tới gan, làm ảnh hưởng đến gan và một số bộ phận khác cơ thể, như lách có thể lớn. Nếu SR tác động đến thận, lượng urê sản sinh sẽ xuống thấp khác thường.
Trên thế giới hiện nay cũng sử dụng thuốc artemisinin là dược phẩm chính trong việc điều trị bệnh sốt rét. Tuy nhiên, các loại thuốc chữa trị sốt rét thường có nhiều tác dụng phụ nên bệnh nhân cần được bác sĩ theo dõi nhất là đối với phụ nữ có thai. WHO cũng công bố hướng dẫn mới nhất trong việc kết hợp các loại thuốc để điều trị công hiệu, không nên chỉ sử dụng một loại thuốc thông dụng được cho là có hiệu quả nhất, để tránh việc thuốc bị đề kháng. WHO cũng khuyến cáo mọi ca bệnh có triệu chứng sốt rét phải được điều trị bằng thuốc sốt rét. Việc điều trị căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng chỉ áp dụng ở những nơi không có điều kiện làm các xét nghiệm mà thôi. Chương trình QGPCSR còn đang theo dõi, hiện nay thì chưa có xác nhận là có trường hợp nào kháng artemisinin ở tại Việt Nam.
Ông Robert Newman, Giám đốc Chương trình Phòng chống sốt rét toàn cầu của WHO cho biết nguy cơ lớn nhất đối với công tác phòng chống căn bệnh này là việc KSTSR kháng Artemisinin. Về trường hợp kháng thuốc, từ vùng Pailin ở Cambodia có một hiện tượng KSTSR bắt đầu giảm nhạy cảm đối với thuốc Artemisinin. WHO cũng tổ chức một số buổi họp để bàn về những biện pháp để bao vây và đối phó với tình hình này. Trong khi đó ở Việt Nam thì hiện nay vẫn trong giai đoạn theo dõi bởi vì số lượng bệnh nhân không nhiều, chỉ khu trú ở một vài tỉnh, một vài vùng gần với biên giới Cambodia. Các cơ quan y tế (Viện chuyên ngành và Bệnh viện bệnh nhiệt đới) cũng như Chương trình QGPCSRvẫn còn đang theo dõi, chưa có xác nhận là có trường hợp nào kháng Artemisinin ở tại Việt Nam. Hiện nay Việt Nam vẫn áp dụng cả phương pháp cổ điển nhuộm giêm sa, soi dưới kính hiển vi và phương pháp mới là dùng test chẩn đoán nhanh (RDTs), phương pháp cổ điển là vẫn làm lam lam nhuộm giêm sa, trong khi test nhanh RDTs thì chỉ trong vòng 10 - 15 phút có thể phát hiện rất nhanh và tiện lợi. Hiện nay, 1 test như vậy giá khoảng 0.5 USD. Chương trình QGPCSR Việt Nam được WHO hỗ trợ về mặt kỹ thuật, đồng thời nhận được sự tài trợ Quỹ Toàn cầu (Global Fund), tổ chức Melinda Bill Gates Foundation, cũng như sự giúp đỡ về mặt tài chính và kỹ thuật của một số các quốc gia khác như Mỹ, Pháp, Anh, Australia, ...đến các đơn cị nghiên cứu chuyên ngành sốt rét. Ngoài việc điều trị trị, các chuyên gia y tế cố gắng ngăn ngừa căn bệnh sốt rét bằng các chương trình kiểm soát muỗi nhằm giết muỗi.
Biện pháp phòng bệnh cá nhân là chống lại muỗi đốt bằng cách bôi kem chống muỗi hoặc mặc quần áo dài, kín, dùng thuốc đuổi muỗi, nên mắc mùng khi ngủ. Đối với người nghi ngờ mắc bệnh, cần thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán sớm để điều trị ngay. Việc xét nghiệm ngay sẽ giúp bệnh nhân nhận được đúng loại thuốc trị bệnh và phòng ngừa sự lan rộng của việc kháng thuốc artemisinin, một loại thuốc quan trọng để chữa bệnh sốt rét. Hiện nay, bệnh sốt rét vẫn là một bệnh nguy hiểm, có thể gây tử vong cho con người. Một người đã từng bị mắc bệnh sốt rét nhiều lần có thể xuất hiện miễn dịch chống lại KSTSR phần nào. Đối với bệnh sốt rét, trong gần 10 năm nay tình hình đã giảm đi rất nhiều, giảm 90% so với 10 - 15 năm trước. Tuy nhiên, miễn dịch chỉ tồn tại trong vòng từ 1-2 năm sau khi nhiễm bệnh. Vì thế, người đã từng mắc bệnh sốt rét vẫn có thể bị mắc bệnh trở lại nếu đi vào vùng có bệnh SR hoành hành mà không áp dụng các biện pháp để phòng vệ. Đối với phụ nữ mang thai, Cơ quan Kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ (Centers for Disease Control and Prevention_CDC) khuyến cáo các PNMT nên tránh du lịch tới vùng có dịch sốt rét. Thai phụ, nếu mắc bệnh sốt rét thì bệnh tình sẽ trầm trọng hơn người bình thường rất nhiều vì bệnh có thể đưa tới những biến chứng cho cả mẹ và con, thậm chí tử vong.
Thúc đẩy nghiên cứu khoa học về bệnh sốt rét
Hội nghị Liên hiệp quốc bàn về bệnh sốt rét (UN Millennium Development Goals Malaria Summit) diễn ra tại New York thông qua bản kế hoạch hành động toàn cầu với mục đích giảm thiệt hại của bệnh sốt rét và tiến đến loại trừ hoàn toàn bệnh dịch này. Mục tiêu loại trừ một bệnh dịch nào luôn là một nỗ lực phi thường và đôi khi là vô vọng. Tuy nhiên bản kế hoạch lần này khá chi tiết, tham vọng và tất nhiên rất tốn kém. Nguồn ngân sách chi dùng cho bệnh sốt rét đã tăng từ 250 triệu USD năm 2004 đến 1.1 tỷ USD năm nay và đang kêu gọi tăng lên 5 tỷ USD mỗi năm cho đến tận 2020. Nguồn kinh phí cho khoa học cơ bản cũng nhờ đó tăng từ 265 triệu USD (2003) lên 422 triệu USD (2007) và kế hoạch tăng gấp đôi (từ 750 - 900 triệu USD đến 2018). Nguồn tài chính cung ứng này cũng đang bị chịu nhiều ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay.
Việc cân bằng giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng luôn là chủ đề tranh cãi. Dự án giải mã bộ gen của P. falciparum, ký sinh trùng chính gây bệnh sốt rét, đã cung cấp tư liệu quý cho quá trình tìm kiếm những dược phẩm và vaccine mới. Giờ đây, 2 bộ gen của ký sinh trùng khác là P. vivax (gây tỷ lệ tử vong thấp hơn so với P. falciparum) và P. knowlesi (chủ yếu gây bệnh sốt rét ở khỉ) sẽ bổ sung những hiểu biết là bộ gen của P. falciparum bởi vì hơn một nửa số gen của nó hiện chưa rõ chức năng. Những nghiên cứu cơ bản về khả năng kháng thuốc của ký sinh trùng và khả năng kháng thuốc diệt côn trùng của muỗi luôn cần thiết để đem lại những kiến thức đầy đủ về quá trình nhiễm bệnh và lây truyền tự nhiên của sốt rét. Một trong những khám phá ấn tượng từ genome của P. falciparum là tính đa dạng trong việc biểu hiện gene và genome đã giúp ký sinh trùng lẩn tránh hệ miễn dịch của con người. P. falciparum có thể điều khiển mức độ biểu hiện gen của nó trong những trạng thái hoặc điều kiện sinh lý và trao đổi chất khác nhau. Điều này đã làm thay đổi những định hướng nghiên cứu về quá trình phát triển thuốc và vaccine sắp tới.
Những dược phẩm và vaccine cho bệnh sốt rét hiện nay đã hiệu quả và an toàn hơn so với những thập niên trước. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần tìm ra những phương cách tiếp cận và phát triển mới. Quỹ tài trợ Bill & Melinda, nhà tài trợ lớn nhất trong nghiên cứu bệnh sốt rét, đã loan báo nguồn tài trợ 168 triệu USD để phát triển vaccine sốt rét thế hệ mới. Tuy nhiên, phần lớn nguồn tài trợ này lại dùng cho các nghiên cứu chuyển giao và y tế. Nhiều nhà khoa học mong muốn các quỹ tài trợ sẽ có thể tập trung hơn cho các nghiên cứu cơ bản. Một bài học khác cũng được rút ra là cần xúc tiến hơn nữa việc trao đổi thông tin giữa các nhóm nghiên cứu để có thể chuyển giao và tập trung hiệu quả các nguồn tài nguyên, tránh việc lãng phí. Cũng cần thiết phải nhấn mạnh sự trưởng thành của cộng đồng nghiên cứu đến từ các nước thứ ba, chính nơi các bệnh dịch hoành hành. Điều này cần phải được thừa nhận rộng rãi và những hợp tác mới phải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng và bình đẳng.