Nhắm mục tiêu vào giai đoạn đầu của muỗi có khả năng thúc đẩy các nỗ lực to lớn trong phòng chống bệnh sốt rét và ngăn chặn hàng ngàn ca nhiễm mới mỗi năm,một nghiên cứu mới xem xét hiệu quả giám sát ổ bọ gậy nguồn hoặc LSM (larval source management).
Ước tính bệnh sốt rét gây ra 660.000 ca tử vong mỗi năm, chủ yếu là ở cận Saharan-Châu Phi và Châu Á.Hiện nay, các biện pháp phòng ngừa bệnh sốt rét chính là màn tẩm hóa chất diệt tồn lưu dài lâu và phun tồn lưu trong nhà nhưng muỗi đang tăng cường sức đề kháng với các hóa chất. Đó là lý do tại sao các nhà nghiên cứu xem xét lại 13 nghiên cứu về LSM từ Eritrea, Kenya, Gambia, Mali, Tanzania, Philippines, Srilanka và Hy Lạp. Theo Lucy Tusting-một nhà dịch tễ học tại Đại học Vệ sinh và Y học Nhiệt đới London-tác giả chính của Tổng quan Cochrane: "Nghiên cứu này rất quan trọng vì một số quốc gia lưu hành bệnh sốt rét ở các vùng cận Saharan Châu Phi và các nơi khác đang sử dụng giám sát ổ bọ gậy nguồn nhưng có một sự thiếu đồng thuận trong thực tế về hiệu quả của phương pháp này có thể có được, nơi nào là thích hợp và vài nghiên cứu cho đến nay được thực hiện một cách chặt chẽ để đánh giá sự can thiệp. Loại trừ muỗi trước khi chúng có thể truyền ký sinh trùng trên bề mặt dường như là một bổ sung có giá trị cho bất kỳ chương trình phòng chống nào nhưng đó không phải là một quyết định đơn giản. Trước hết, hiện có nhiều phương pháp hiệu quả trong phòng chống sốt rét: màn tẩm hóa chất tồn lưu lâu và phun tồn lưu trong nhà đều có hiệu quả cao trong một quy mô rộng lớn trên khắp Châu Phi và các nơi khác và không nghi ngờ về một lý do chính cho sự thành công trong phòng chống sốt rét trong những thập kỷ qua. Vì vậy, có ít điều cần phải tìm kiếm các can thiệp thay thế khác".
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã ban hành hướng dẫn về việc sử dụng LSM. Hiện nay, WHO không khuyến cáo sử dụng diệt ấu trùng (larvae) ở vùng nông thôn cận Saharan-Châu Phi trừ khi có những trường hợp cụ thể làm hạn chế môi trường sống của ấu trùng muỗi. Theo hướng dẫn diệt ấu trùng cần được xem xét để phòng chống bệnh sốt rét-có hoặc không có biện pháp can thiệp khác-chỉ trong khu vực nơi có muỗi sinh sản rất ít, cố định và dễ tìm thấy. Trong hầu hết các nơi lưu hành, cách thích hợp dùng để diệt ấu trùng như là một phương pháp bổ sung với màn tẩm và phun thuốc. WHO cho biết biện pháp diệt ấu trùng có thể có hiệu quả như phương pháp hàng đầu của phòng chống vector trong khu vực đô thị, tuy nhiên bằng chứng chất lượng tốt hơn là cần thiết để ủng hộ quan điểm này.
Tusting giải thích giám sát ổ bọ gậy nguồn: sốt rét lây truyền qua muỗi, chúng đẻ trứng trong nước đọng, trứng nở và phát triển thành ấu trùng, sau đó phát triển thành muỗi trưởng thành có khả năng truyền bệnh sốt rét. Vì vậy, giám sát ổ bọ gậy nguồn (larval source management) là một phương pháp phòng chống bệnh sốt rét hoạt động nhằm mục tiêu vào những giai đoạn muỗi chưa trưởng thành được tìm thấy trong nước đọng (standing water). Màn tẩm hóa chất tồn lưu lâu (long-lasting insecticide treated nets) và phun hóa chất tồn lưu trong nhà (residual indoor spraying) đều nhằm vào đích là muỗi trưởng thành. LSM sẽ được sử dụng kết hợp với các phương pháp này. Có một số cách sử dụng giám sát ổ bọ gậy nguồn, có thể đặc biệt hiệu quả trong khu vực đô thị. Ví dụ, loại bỏ vĩnh viễn nước đọng bằng cách tháo nước hoặc lấp đất hoặc thay đổi môi trường sống tạm thời của muỗi để làm gián đoạn sinh sản như khơi thông cống rãnh để cải thiện nước chảy. Một phương pháp phổ biến khác là diệt ấu trùng trong vũng nước đọng bằng hóa chất diệt sinh học hay hóa học. Tusting cho biết một số nghiên cứu cho thấy chi phí của LSM sẽ được so sánh với các chi phí cho việc mua màn và phun thuốc. Theo chiến dịch đẩy lùi sốt rét (Roll back malaria campaign), tổng số chi phí của chiến lược toàn cầu chống lại căn bệnh này là từ 5 đến 6 tỷ đô la một năm. Đồng nghiệp của bà và đồng tác giả-Giáo sư Steve Landry tại Đại học Duham gọi tổng quan là một bước ngoặt quan trọng thể hiện rằng nhiều nơi giám sát ổ bọ gậy nguồn nên được sử dụng như một vũ khí bổ sung chống lại bệnh sốt rét ở các nơi thích hợp, có thể làm giảm các trường hợp mắc bệnh sốt rét lên đến 75% và tỷ lệ người bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét khoảng 90%.