Gánh nặng bệnh sốt rét trong năm 2012
Sốt rét(SR) là bệnh do muỗi truyền và hoàn toàn có thể ngăn ngừa và điều trị được bằng thuốc và hóa chất. Trong năm 2013, có 97 quốc gia có lan truyền bệnh sốt rét đang diễn ra. Ước tính thế giới có khoảng 3,4 tỷ người có nguy cơ mắc bệnh sốt rét, trong đó khoảng 1,2 tỷ người có nguy cơ cao. Những khu vực hay vùng SRLH có nguy cơ cao, số ca mắc bệnh sốt rét là hơn một trường hợp trện 1000 dân.
Ước tính có khoảng 207 triệu trường hợp mắc bệnh SR vào năm 2012 (số trường hợp mắc bệnh dao động từ 135-287triệu trường hợp mắc SR) và khoảng 627.000 trường hợp tử vong (số ca tử vong giao động từ 473.000–789.000). Với 90% số ca tử vong SR xảy ra ở vùng cận sa mạc Sahara, châu Phi và 77% xảy ra ở trẻ em dưới năm tuổi. Trong năm 2012, bệnh SR đã giết chết khoảng 483.000 trẻ em dưới năm tuổi và mỗi ngày có 1.300 trẻ em tử vong hoặc mỗi phút có một đứa trẻ tử vong do sốt rét. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2012, các biện pháp can thiệp cộng đồng trên quy mô lớn đã làm giảm tỷ lệ mắc SR toàn cầu là 29% và 31% nằm ở khu vực châu Phi. Cũng trong giai đoạn này, tỷ lệ tử vong do SR toàn cầu giảm 45%, trong khi đó ở khu vực châu Phi giảm 49%. Từ năm 2000 đến năm 2012, ước tính có khoảng 3,3 triệu trường hợp đã được cứu sống nhờ áp dụng các biện pháp can thiệp trên quy mô lớn trong cộng động ở các quốc gia có lưu hành sốt rét. Với tỷ lệ 90%, hoặc 3 triệu người, trong số những người được cứu sống là ở nhóm trẻ em dưới năm tuổi, ở khu vực sa mạc Sahara, châu Phi.
Nguồn tài trợ vẫn còn thiếu
Nguồn tài chính giải ngân quốc tế để kiểm soát bệnh sốt rét đã gia tăng từ 100 triệu USD năm 2000 lên 1,94 tỷ USD trong năm 2012 và 1,97 tỷ USD vào năm 2013. Chính phủ các quốc gia tài trợ cho các Chương trình quốc gia sốt rét cũng đã tăng lên kể từ năm 2004 nhưng tốc độ gia tăng tại trợ kinh phí không giống nhau. Tổng nguồn tài trợ kinh phí của các chính phủ trong năm 2012 là 522 triệu USD. Kinh phí hiện có là thấp hơn nhiều so với các nguồn lực cần thiết để phổ biến các biện pháp can thiệp. Ước tính hàng năm cần khoảng 5,1 tỷ USD để thực hiện cho các mục tiêu này. Trong năm 2012, tổng số kinh phí toàn cầu được tài trợ bởi các tổ chức quốc tế và chính phủ các quốc gia lưu hành sốt rét là 2,5 tỷ USD – ít hơn một nữa so với nhu cầu thực tế.
Những tiến bộ hướng đến mục tiêu toàn cầu
Hiện nay, trên thế giới có ít nhất 52 quốc gia đang xảy ra lan truyền bệnh sốt rét với tỷ lệ mắc bệnh SR giảm xuống 75%, phù hợp với mục tiêu đến năm 2015 của Hội đồng Y tế thế giới (World Health Assembly) và Tổ chức Đẩy lùi sốt rét (Roll Back Malaria). 52 quốc gia này chỉ chiếm 4% (8 triệu trường hợp mắc sốt rét) trong tổng số các trường hợp mắc bệnh SR ước tính trên toàn cầu. 59 quốc gia đang trên đà đạt được “Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (từ năm 2000 đến năm 2015). Mục tiêu chung của thế giới là giảm thiểu các trường hợp mắc bệnh SR và tử vong sốt rét (TVSR) sẽ không thể đạt được tiến bộ đáng kể, trừ khi nó được thực hiện ở 18 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất, chiếm khoảng 80 % các trường hợp mắc bệnh SR trên toàn cầu. Khoảng 40% số ca TVSR chỉ xảy ra ở hai quốc gia đó là Nigeria và Cộng hòa Dân chủ Congo.
Xu hướng mở rộng quy mô can thiệp bệnh sốt rét
Trong năm 2013, có một sự gia tăng đáng kể trong việc cung cấp các loại màn tẩm hóa chất từ 70 triệu màn được cung cấp trong năm 2012 tăng lên 136 triệu màn tồn lưu kéo dài (Long-Lasting Insecticidal Nets - LLINs) trong năm 2013 ở các nước có lưu hành bệnh. Ước tính có khoảng 200 triệu màn LLINs sẽ được tài trợ vào năm 2014, cho thấy một nguồn cung cấp hàng hóa nhiều hơn nữa trong năm 2014. Số lượng người được cấp màn LLINs vẫn còn thấp hơn so với mục tiêu chung và chưa được cải thiện đáng kể trong năm 2011 và 2012. Trong năm 2012, trên thế giới có 135 triệu người (khoảng 4% dân số toàn cầu có nguy cơ mắc bệnh SR) được bảo vệ bằng biện pháp phun hóa chất tồn lưu trên tường vách trong nhà. Việc mở rộng khả năng tiếp cận bằng xét nghiệm chẩn đoán nhanh (RDTs) và điều trị phối hợp có artemisinin đảm bảo chất lượng (ACTs) ngày càng tăng.
• Số lượng test chẩn đoán nhanh (RDTs) được bán đến các cơ sở tư nhân và nhà nước ở các quốc gia lưu hành SR đã gia tăng từ 88 triệu trong năm 2010 lên 205 triệu trong năm 2012. Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2012, tỷ lệ số ca nghi ngờ mắc bệnh sốt rét được xét nghiệm bằng test chẩn đoán nhanh ở khu vực nhà nước tăng từ 44% đến 64% trên toàn cầu và riêng khu vực châu Phi gia tăng từ 37% lên đến 61%.
• Số bệnh nhân được xét nghiệm bằng kính hiển vi cũng đã gia tăng lên 188 triệu lam trong năm 2012, trong đó Ấn Độ chiếm hơn 120 triệu lam được kiểm tra.
• Trong năm 2012, có 331 triệu liều thuốc phối hợp dạng ACTs được mua bởi các tổ chức chính phủ và tư nhân ở các nước có SR lưu hành - từ 11 triệu liều trong năm 2005 gia tăng lên 278 triệu liều trong năm 2011. Thuốc phối hợp dạng ACTs được khuyến cáo điều trị trước tiên cho những ca sốt rét do Plasmodium falciparum, đây là chủng ký sinh trùng gây ra nhiều ca tử vong sốt rét nhất trên toàn thế giới.
Giám sát bệnh sốt rét
Số trường hợp mắc bệnh sốt rét được phát hiện bởi hệ thống giám sát ước tính gia tăng từ 10% trong năm 2010 lên 14% vào năm 2012. Trong đó có 41 quốc gia, không thể đánh giá chính xác xu hướng bệnh sốt rét, nguyên nhân do không có số liệu đầy đủ hoặc không thống nhất báo cáo theo thời gian, những thay đổi trong thực hành chẩn đoán hoặc sử dụng dịch vụ y tế. Tổ chức Y tế thế giới kêu gọi các nước có lưu hành sốt rét gia tăng mạnh mẽ hệ thống giám sát và hệ thống đăng ký hộ tịch.
Ký sinh trùng kháng thuốc và Muỗi kháng hóa chất diệt
Ký sinh trùng kháng artemisinin và các dẫn xuất – hoạt chất chính của ACTs đã được phát hiện ở bốn quốc gia ở Đông Nam Á gồm Campuchia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Bây giờ, ACTs vẫn có hiệu lực cao trong hầu hết các trường hợp điều trị, kết hợp với thuốc thời gian bản hủy kéo dài, để phối hợp điều trị có hiệu quả tại địa phương. Kế hoạch toàn cầu cho việc ngăn chặn tình trạng kháng artemisinin đã được khởi động trong năm 2011, bao gồm nhiều nội dung hướng dẫn chiến lược của TCYTTG làm thế nào để quản lý mối đe dọa kháng thuốc trên phạm vi toàn cầu. Hiện nay TCYTTG khuyến cáo dùng chloroquine để điều trị bệnh sốt rét do Plasmodium vivax ở những nơi thuốc vẫn còn hiệu lực. Cho đến nay, ký sinh trùng P. vivax kháng chloroquine đã được xác nhận tại 10 quốc gia. TCYTTG đã khuyến cáo dùng thuốc ACTs để điều trị chống sốt rét do P. vivax kháng chloroquine. Thêm 13 quốc gia khác cũng đã quan sát thấy thất bại điều trị hoặc thất bại dự phòng điều trị với chloroquine, tuy nhiên vẫn cần nhiều nghiên cứu sâu hơn để khẳng định tính kháng của Plasmodium vivax với chloroquine ở các quốc gia này. Muỗi kháng với ít nhất một loại hóa chất diệt côn trùng được sử dụng trong kiểm soát véc tơ sốt rét đã được xác định ở 64 quốc gia trên toàn thế giới. Kế hoạch toàn cầu đối về quản lý kháng hóa chất diệt côn trùng ở các véc tơ sốt rét đã được khởi động trong năm 2012 với nội dung thực hiện một chiến lược với năm “trụ cột” về quản lý mối đe dọa kháng hóa chất diệt côn trùng.
|
Kế hoạch toàn cầuvề Quản lý kháng hóa chất diệt côn trùng của véc tơ sốt rét (Global plan for insecticide resistance management in malaria vectors - GPIRM). |
Kháng hóa chất diệt côn trùng là gì?
Kháng hóa chất diệt côn trùng liên quan đến những thay đổi bên trong quần thể côn trùng, làm suy giảm ảnh hưởng hóa chất diệt côn trùng đến một quần thể côn trùng nhất định. Kháng hóa chất diệt côn trùng có thể được phát hiện thông qua các xét nghiệm di truyền thực hiện trên các loài côn trùng, hoặc thông qua thử nghiệm để tính toán tỷ lệ chết của côn trùng khi tiếp xúc với một hóa chất cụ thể. Trong chương trình phòng chống sốt rét (PCSR), các nhóm hợp chất hiện đang được sử dụng rộng rãi để chống lại muỗi Anopheles truyền bệnh ký sinh trùng Plasmodium spp. thuộc 4 nhóm gồm: Carbamate, organochlorines, organophosphates và pyrethroid. Kết quả khả năng muỗi kháng với các loại hóa chất diệt côn trùng nghĩa là chúng có khả năng sống sót khi khi tiếp xúc với màn tẩm hóa chất tồn lưu kéo dài (LLINs) hoặc một liều lượng tiêu chuẩn của hóa chất diệt côn trùng khi phun tồn lưu trên tường vách trong nhà (IRS) – đây là hai biện pháp can thiệp phổ biến nhất hiện nay trong chương trình phòng chống véc tơ sốt rét. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các biện pháp can thiệp này trở nên ít hiệu quả hoặc dẫn đến sự gia tăng các trường hợp mắc sốt rét.
Kháng hóa chất diệt côn trùng lần đầu tiên được xác định khi nào?
Kháng hóa chất diệt côn trùng không phải là một vấn đề mới bởi vì nó đã được xác định như một tác dụng không mong muốn trong các chương trình kiểm soát véc tơ sốt rét từ các loại hóa chất diệt côn trùng lần đầu tiên được đưa vào sử dụng rộng rãi trong những năm 1940. Những quốc gia lưu hành sốt rét đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phát hiện và ngăn chặn sự phát triển, lây lan tình trạng kháng hóa chất diệt côn trùng, và nhiều quốc gia đã đưa chương trình giám sát và quản lý kháng hóa chất diệt côn trùng vào các chiến lược phòng chống sốt rét tại chính quốc gia của họ. Tuy nhiên, trong hầu hết các nước lưu hành bệnh sốt rét - đặc biệt là ở cận Sahara châu Phi - chiến lược kiểm soát trong thập kỷ qua đã tập trung vào mở rộng quy mô can thiệp kiểm soát véc tơ và chỉ có nguồn lực giới hạn có giá trị để xây dựng năng lực giám sát côn trùng, kiểm tra tính nhạy cảm với hóa chất diệt côn trùng và thiết kế các chiến lược để quản lý kháng hóa chất diệt côn trùng.
Các yếu tố chính thúc đẩy sự xuất hiện và lây lan tình trạng kháng hóa chất côn trùng trong thập kỷ qua là do sự phụ thuộc rất lớn vào một nhóm hóa chất duy nhất đó là nhóm pyrethroid. Nhóm pyrethroid không chỉ có hiệu quả cao mà còn là nhóm hóa chất có giá thành thấp nhất trong 4 nhóm hóa chất diệt côn trùng để kiểm soát véc tơ trong y tế cộng đồng hiện nay. Pyrethroid là nhóm hóa chất duy nhất thích hợp được sử dụng cho tẩm màn tồn lưu kéo dài (Long lasting insecticidal nets - LLINs). Ở một số khu vực, pyrethroid cũng được sử dụng tương tự như một loại hóa chất diệt sâu hại trong nông nghiệp cũng xuất hiện điều này đã góp phần thêm vào sự phát triển tình trạng kháng hóa chất của muỗi. Hiện nay, các công cụ phòng chống sốt rét hiện tại bao gồm LLINs và IRS - vẫn có hiệu quả cao ở tất cả các nước có lan truyền bệnh SR. Tuy nhiên, cần hành động khẩn cấp ngay từ bây giờ là rất cần thiết nhằm mục đích ngăn chặn sự phát triển tình trạng kháng hóa chất nhằm duy trì hiệu quả của các biện pháp can thiệp, kiểm soát véc tơ và những thành công vượt trội gần đây trong kiểm soát bệnh sốt rét.
Hiện nay, bao nhiêu quốc gia có bằng chứng kháng hóa chất diệt côn trùng?
Theo Kế hoạch toàn cầu trong việc Quản lý tình trạng kháng hóa chất diệt côn trùng của các véc tơ sốt rét (Global Plan for Insecticide Resistance Management in malaria vectors_GPIRM), muỗi kháng ít nhất một nhóm hóa chất diệt côn trùng đã được xác định ở 64 quốc gia có lan truyền sốt rét xảy ra. Một số quốc gia ở cận vùng sa mạc Sahara, châu Phi và Ấn Độ đã báo cáo tình trạng kháng hóa chất xảy ra trên diện rộng. Hầu hết các quốc gia bị ảnh hưởng hầu như chưa thực hiện đầy đủ trong việc giám sát thường xuyên, có nghĩa là sự hiểu biết của chúng ta về tình trạng kháng hóa chất diệt côn trùng là không đầy đủ. Để giải quyết vấn đề này, GPIRM kêu gọi thành lập một cơ sở dữ liệu toàn cầu về kháng hóa chất diệt côn trùng để giúp các quốc gia có lưu hành SR và các nhà làm chính sách cần có hành động nhằm vào các mục tiêu chính. Trong tháng 12 năm 2011, TCYTTG thông báo rằng kháng hóa chất diệt côn trùng đã được xác định tại ít nhất 45 quốc gia với ít nhất một nhóm hóa chất diệt côn trùng. Các số liệu được trình bày trong GPIRM không phải là một dấu hiệu của việc lây lan. Thay vào đó, sự khác biệt là do thực tế rằng TCYTTG đã xem xét và xử lý dữ liệu từ nhiều báo cáo bổ sung của các quốc gia lưu hành sốt rét cũng như các nghiên cứu độc lập. Giám sát thường xuyên được mở rộng, một bức tranh chi tiết hơn xuất hiện về tình trạng kháng hóa chất diệt côn trùng. Cơ sở dữ liệu toàn cầu một khi được thành lập, sẽ giúp cung cấp theo dõi kịp thời các thay đổi mô hình kháng hóa chất diệt côn trùng và TCYTTG sẽ đưa ra các dữ liệu cập nhật thường xuyên về số lượng các nước bị ảnh hưởng vấn đề này như thế nào.
GPIRM là gì và nó được phát triển như thế nào?
Kê hoạch GPIRM như là một lời kêu gọi hành động trên quy mô toàn cầu. Thông qua kế hoạch này, TCYTTG và các đối tác Đầy lùi sốt rét đang kêu gọi chính phủ các quốc gia đang có lưu hành sốt rét, các tổ chức tài trợ, các cơ quan của Liên Hợp Quốc cũng như các đối tác nghiên cứu và ngành công nghiệp để thực hiện một chiến lược năm “trụ cột” nhằm giải quyết các mối đe dọa ngày càng gia tăng tình trạng kháng hóa chất diệt côn trùng và tạo điều kiện phát triển các chiến lược, các sáng kiến về công cụ kiểm soát véc tơ. GPIRM đã được kêu gọi vào năm 2011 do Đại hội đồng Y tế Thế giới và đối tác Đẩy lùi bệnh sốt rét vì một niềm tin chung đó là một chiến lược toàn cầu cần thiết để đáp ứng nền tảng trong việc đáp ứng nguồn tài trợ phối hợp với các bên liên quan. GPIRM được phát triển thông qua tham khảo ý kiến rộng rãi với hơn 130 đại diện các bên liên quan ở tất cả các khu vực có cộng đồng mắc bệnh sốt rét, trong đó bao gồm các quốc gia lưu hành bệnh, các tổ chức đa phương, các đối tác phát triển, học viện và ngành công nghiệp. Kế hoạch chứa đựng các bằng chứng mới nhất hiện nay về mức độ kháng hóa chất diệt côn trùng trên toàn thế giới và đưa ra một chiến lược cho các mức độ toàn cầu cũng như ở cấp độ quốc gia, xác định rõ vai trò và thời gian cho tất cả các bên liên quan. GPIRM cũng tóm tắt thông tin về các sản phẩm sáng tạo mới đang được phát triển và đưa ra các ưu tiên nghiên cứu và phát triển ngay lập tức. Tài liệu này đã được đưa ra vào ngày 15 tháng 5 năm 2012 tại trụ sở của TCYTTG ở Geneva.
GPIRM đưa ra những giải pháp gì?
GPIRM dựa trên năm trụ cột, những hành động giải quyết kéo dài trongthời gian ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Nó yêu cầu phối hợp hành động từ tất cả các bên liên quan, bao gồm cả chương trình quốc gia phòng chống sốt rét và cơ quan quản lý quốc gia, TCYTTG, các nhà tài trợ và các tổ chức đa phương khác, các viện nghiên cứu cũng như các đối tác trong ngành công nghiệp hóa chất diệt côn trùng trong y tế công cộng. Chiến lược kêu gọi các bên liên quan: (1) Kế hoạch và thực hiện chiến lược quản lý kháng hóa chất diệt côn trùng (Insecticide resistance management - IRM) ở các quốc gia lưu hành sốt rét; (2) Đảm bảo khả năng phù hợp, thời gian giám sát côn trùng kịp thời và quản lý dữ liệu hiệu quả; (3) Phát triển, sáng tạo các công cụ kiểm soát véc tơ; (4) Bổ sung những khoảng trống kiến thức về cơ chế kháng hóa chất diệt côn trùng và tác động của phương pháp tiếp cận quản lý tính kháng hóa chất hiện hiện tại và cuối cùng (5) Đảm bảo các cơ chế mới quan trọng - bao gồm sự ủng hộ, nguồn lực, nhân lực và tài chính được đưa ra.
Nhiệm vụ cấp bách nhất đối với hầu hết các nước có lưu hành sốt rét là sẽ thay đổi chương trình kiểm soát véc tơ để giải quyết tình trạng kháng hóa chất diệt côn trùng. Đầu tiên là phân tích tình trạng kháng hóa chất diệt côn trùng và thiết kế một chiến lược toàn diện về kế hoạch thực hiện quản lý tình trạng kháng hóa chất diệt côn trùng (IRM). Các nước nên cố gắng có chiến lược IRM ưu tiên những nơi còn thiếu và kết hợp các chi phí liên quan vào ngân sách phòng chống sốt rét quốc gia. Cùng lúc đó, tất cả các quốc gia lưu hành sốt rét nên thiết kế một kế hoạch giám sát và xây dựng năng lực để xử lý và phân tích các dữ liệu về kháng hóa chất. Thông qua IRM, các nước lưu hành sốt rét có thể trì hoãn sự phát triển tính kháng hóa chất, bảo vệ hiệu quả diệt côn trùng của hóa chất đang sử dụng hiện tại và thậm chí đảo ngược tình trạng kháng đã được thiết lập. Thực hiện thành công GPIRM sẽ yêu cầu phối hợp hành động giữa các đối tác của cộng đồng PCSR cũng như các lĩnh vực khác như nông nghiệp và tài chính.
Tác động của sử dụng màn tẩm hóa chất diệt côn trùng tồn lưu kéo dài là gì?
Tất cả các loại màn dạng LLINs hiện được đề nghị sử dụng bởi TCYTTG đều được tẩm hóa chất nhóm pyrethroid. Trong thập kỷ qua, kiểm soát véc tơ đã dựa rất nhiều vào nhóm hóa chất pyrethroid và nhiều quốc gia đã báo cáo tình trạng kháng xảy ra trên diện rộng đối với nhóm pyrethroid. Tuy nhiên, có rất ít trường hợp được chứng minh nơi kháng hóa chất diệt côn trùng có liên quan đến việc giảm hiệu quả của LLINs hoặc tăng số ca mắc bệnh sốt rét. Thậm chí ở những nơi tình trạng kháng hóa chất đã được xác định, các nước cần tiếp tục mở rộng quy mô và duy trì độ bao phủ với màn tồn lưu kéo dài (LLINs) và nhằm mục đích bao phủ diện rộng với các can thiệp kiểm soát véc tơ. Bởi vì LLINs hoạt động như một rào cản vật lý chống muỗi truyền bệnh sốt rét và bởi vì ngay cả một tác dụng phụ gây chết của hóa chất diệt côn trùng có thể góp phần kiểm soát bệnh sốt rét. Tiếp tục sử dụng màn LLINs, tác động của việc sử dụng LLINs cần phải được theo dõi chặt chẽ và kháng sẽ được kiểm tra tại các địa điểm trọng điểm một năm ít nhất một lần và những nơi có điều kiện có thể thực hiện 6 tháng một lần. GPIRM khuyến cáo rằng ở những khu vực có lan truyền bệnh sốt rét cao và đã xác định mức độ kháng hóa chất diệt côn trùng và những nơi LLINs được sử dụng cùng với phun tồn lưu trên tường vách (IRS), thì nên sử dụng một loại hóa chất không thuộc nhóm pyrethroid để phun tồn lưu trên tường vách.
Những loại sản phẩm mới đang được phát triển?
Một số công ty tư nhân và các Viện nghiên cứu đang tích cực làm việc để khám phá, phát triển và triển khai thực hiện các chiến lược và công cụ kiểm soát véc tơ mới. Hiện tại cũng cố các nguồn cung cấp hóa chất diệt côn trùng đang hiện có và các thành phần hoạt tính mới đang hứa hẹn nhưng yêu cầu cần tăng cường đầu tư nhiều hơn nữa để tăng tốc độ nghiên cứu và phát triển. Một đối tác quan trọng đó là Hiệp hội Sáng kiến Kiểm soát Véc tơ (innovative Vector Control Consortium - IVCC), đối tác phát triển sản phẩm, những nhà cung cấp bao gồm màn tẩm hóa chất tồn lưu lâu LLINs không được xử lý nhóm hóa chất pyrethroid và LLINs được xử lý với hai nhóm hóa chất diệt côn trùng, có thể sẽ xuất hiện trong vòng 3-5 năm đến. Những vấn đề cần được giải quyết bao gồm phát triển lại, không sử dụng hợp chất pyrethroid, DDT với hiệu quả tồn lưu lâu khoảng 6 tháng sau khi phun trên tường vách. Ngoài ra, một thành phần hoạt chất được gọi là chlofenapyr hiện đang được thử nghiệm và đánh giá bởi TCYTTG cho các chương trình phun tồn lưu trên tường vách (IRS). Các hợp chất và thành phần hoạt chất mới có thể được ra thị trường vào các năm đến. Hiệp hội sáng kiến kiểm soát véc tơ nghiên cứu tồn lưu lâu hơn của hóa chất sẽ cung cấp bao gồm các hợp chất phun tồn lưu trên tường vách có thời gian tồn lưu lâu hơn và ba thành phần hoạt tính mới trong đó có một thành phần có thể được sử dụng với LLINs. Các sản phẩm này sẽ đưa ra thị trường trong khoảng từ 7-10 năm nữa. Ngoài các sản phẩm này, một số phương pháp mới đang được phát triển, bao gồm cả hóa chất phun không gian xử lý ở những khu vực rộng lớn, bẫy, phương pháp xử lý động vật và một loạt các loại dung dịch không phải là hóa chất diệt côn trùng để kiểm soát véc tơ hiện đang được đánh giá để sử dụng trong y tế cộng đồng.
Tác động tài chính để thực hiện GPIRM?
TCYTTG và các đối tác đẩy lùi bệnh sốt rét hối thúc các cơ quan tài trợ và các nhà tài trợ song phương cam kết tài trợ để hỗ trợ tài chính cho việc thực hiện GPIRM. Tổng chi phí để thực hiện năm trụ cột ở cấp độ toàn cầu ước tính vào khoảng 200 triệu USD mỗi năm. Tính toán này sẽ được vào tài khoản để thực hiện chiến lược IRM ở tất cả 99 quốc gia đang xảy ra lan truyền sốt rét. Nó cũng bao gồm xây dựng năng lực giám sát ở cấp độ quốc gia, các chi phí hoạt động nghiên cứu kháng hóa chất diệt côn trùng, tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển cho các sản phẩm mới để kiểm soát véc tơ và sự phối hợp ở quy mô toàn cầu nhằm hỗ trợ thực hiện chiến lược GPIRM. Đầu tư này rất có ý nghĩa và tương đối nhỏ so với yêu cầu cần đầu tư bảo vệ dân số có nguy cơ cao nếu tình trạng kháng pyrethroid xuất hiện trên diện rộng và làm giảm hiệu quả các biện pháp kiểm soát véc tơ hiện tại. Nó cũng cần lưu ý rằng yêu cầu tài trợ này không phải là một đề xuất cho tất cả các vấn đề quan tâm. Trong khi tài trợ đầy đủ cho GPIRM điều này sẽ cho phép phản ứng mạnh mẽ nhất đối với mối đe doạ khoáng hóa chất diệt côn trùng, cứ mỗi đồng đô la được thêm vào để giải quyết các vấn đề có thể sử dụng tốt để cải thiện khả năng giám sát và năng cao khả năng ứng phó ở những khu vực trọng điểm và tài trợ cho sự phát triển các công cụ để kiểm soát là khẩn trương và cần thiết. Hiện nay, một số hóa chất diệt côn trùng không phải là nhóm pyrethroid thì đắt hơn nhiều so với nhóm pyrethroid, điều này chiếm một khoảng chi phí để thực hiện kế hoạch GPIRM. Với quy mô tiếp tục được mở rộng các can thiệp kiểm soát véc tơ và nhu cầu ngày càng tăng đối với các hóa chất không thuộc nhóm pyrethroid, hy vọng rằng giá sẽ giảm và giảm bớt một số áp lực tài chính đối với các nước và các đối tác phát triển.