1. Sự đồng nhiễm virus HIV và ký sinh trùng sốt rét làm nguy cơ tăng bệnh
Theo một thông báo khoa học được đăng trên tạp chí Lancet (Anh) thì lượng virus HIV trong máu của người nhiễm sẽ tăng gần gấp đôi nếu bệnh nhân đó bị nhiễm thêm ký sinh trùng sốt rét (KSTSR), và điều đó có thể làm tăng khả năng lây truyền bệnh/ virus HIV cho người khác. và trong số người nhiễm HIV đồng nhiễm sốt rét, nếu được điều trị hkỏi bệnh sốt rét thì sau 5-8 tuần lượng virus HIV trong máu họ trở về trùng bình thường gặp ở những người nhiễm HIV không mắc sốt rét.
Từ nghiên cứu trên, nhiều nhà khoa học đã khuyến cao tăng cường sự phối hợp giữa các dựu phòng HIV và Sốt rét để cùng lúc đương đầu với cả hai bệnh dịch này ít nặng gánh hơn.
Một nghiên cứu thuần tập hồi cứu ở Malawi cho thấy có sựu gia tăng lượng virut HIV khi bệnh nhân đó nhiễm thêm ký sinh trùng sốt rét. 367 bệnh nhân trưởng thành HIV được đưa vào nghiên cứu. Trong số 334 người không có mang KSTSR tai thời điểm bắt đầu nghiên cứu, 148 người có ít nhất bị sốt rét một lần và nhận điều trị thuốc sốt rét. 77 trường hợp đã được đo HIV-1-RNA tại thời điểm nghiên cứu, trong thời gian nghiên cứu và sau nghiên cứu. Chúng tôi đã sử dụng đường hồi quy để phân tích, đánh giá tác động của 4 loại hình sốt rét (không có bất kỳ KSTSR nào, mật độ KSTSR £ 2000/ microL, có KSTSR có sốt với mật độ ³ 2000/microL) về sự thay đổi đường log HIV-1-RNA và đếm tế bào CD4. kết quả cho thấy có sự gia tăng một cách có ý nghĩa về viral load khi bệnh nhân đó mắc thêm sốt rét và đIều này làm tăng khả năng lan truyền HIV hơn.
2. Chức năng của hàng rào mạch máu não trong bệnh SRATTN trẻ em Malawi.
Một nghiên cứu của khoa y học lâm sàng Nuffield, bệnh viện John Radcliffe, Oxford, UK cho biết sốt rét ác tính thể não là một biến chứng do Plasmodium falciparum gây ra. Sự kết dính giữa hồng cầu bị ký sinh ký sinh trùng sốt rét với nội mạch đóng một vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh. Các triệu chứng và dấu chứng của hệ thần kinh trung ương (CNS) (gồm hôn mê, động kinh, tăng áp lực sọ não) biểu hiện rất rõ ở các bệnh nhân nhi châu Phi. Trong nghiên cứu này chúng tôI đIều tra xem có sự thay đổi về cấu trúc, chức năng hay chăng của hàng rào mạch máu não (blood brain barrier- BBB) có tương ứng với các dấu chứng, triệu chứng bệnh không? Thực hiện các thông số hóa mô miễn dịch (immunohistochemistry) trên các mẫu bệnh phẩm sau khi giảI phẩu tử thi (autopsie) từ 8 bệnh nhân bị SRATTN cho thấy có sựu hoạt hóa tế bào nội mô và đại thực bào và bẻ gãy các cầu nối của tế bào nội mô giữa các tế bào mà có chứa những hồng cầu bị ký sinh đang ẩn cư trong lòng huyết quản, nhưng ngược lại không thấy một sựu rò lớn của các protein huyết tương (có sự cân bằng giữa hàm lượng albumin giữa huyết tương và dịch não tủy ở 72 trường hợp SRATTN) và sự phá vở hàng rào này chỉ xảy ra tại những nơI các hồng cầu nhiễm bị ẩn cư (sequestration).