Vụ dịch sởi nghi ngờ đã giết chết 14 trẻ em ở Nam Sudan; Đáp ứng của WHO trong phòng chống bệnh sởi
Vụ dịch sởi nghi ngờ đã giết chết 14 trẻ em ở Nam Sudan
31/10/2013.TORIT - Quan chức y tế Nam Sudan đã phát động một chiến dịch tiêm phòng khẩn cấp (emergency vaccination campaign) chống lại bệnh sởi sau khi 14 trẻ em đã chết trong một vụ dịch nghi ngờ của bệnh virus truyền nhiễm ở Payam thuộc bang Đông xích đạo (Eastern Equatoria state).
Quan chức y tế Nam Sudan phát động chiến dịch tiêm phòng khẩn cấp bệnh sởi, vụ dịch bị tình nghi đã giết chết 14 trẻ em ở bang Đông xích đạo
Elijio Omoro Tahir, Giám đốc y tế bang cho biết tất cả các trường hợp tử vong xảy ra trong tuần qua ở Lotimor Payam đều là trẻ em dưới 5 tuổi.Nhân viên y tế biết về các trường hợp tử vong vào thứ ba và ngay lập tức nộp đơn yêu cầu cho Phái bộ Liên Hợp Quốc tại Nam Sudan (UN Mission in South Sudan_UNMISS) cho một chuyến bay chở các nhân viên y tế tới Lotimor tiến hành các xét nghiệm nhằm xác định xem có phải thực sự là một vụ dịch sởi hay không.Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng cho hay nhiều trẻ em dưới 5 tuổi có thể sẽ được chủng ngừa trong 3 ngày tiếp theo ở Lotimor.Nếu vụ dịch sởi được xác nhận, Bộ Y tế sẽ đặt ra một chiến dịch tiêm chủng trong toàn tiểu bang, Tahir nói.
Sởi (Measles) là một bệnh đường hô hấp (respiratory disease) rất dễ lây và gây ra bởi virus. Bộ Y tế Nam Sudan cho biết chỉ có 9% trẻ em Nam Sudan dưới một tuổi được chủng ngừa tất cả các bệnh được gọi là bệnh ở trẻ em (childhood diseases), trong đó có bệnh sởi. Tại Hoa Kỳ, Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Centers for Disease Control and Prevention_CDC) khuyến cáo tiêm chủng cho trẻ em chống lại bệnh sởi một lần trong độ tuổi từ 12 đến 15 tháng và một lần nữa từ 4 đến 6 tuổi. Hơn 440 trường hợp mắc bệnh sởi đã được báo cáo trong năm nay ở Nam Sudan, nếu được xác nhận các trường hợp trong Lotimor Payam sẽ là số ca mắc mới đầu tiên của bệnh sởi ở bang Đông xích đạo, WHO cho biết.
Đáp ứng của WHO trong phòng chống bệnh sởi
Sởi là bệnh rất dễ lây, nghiêm trọng bởi mộtloại virus.Vào năm 1980, trước khi việc tiêm chủng rộng rãi, ước tính khoảng 2,6 triệu người tử vongvì bệnh sởi mỗi năm.Cho đến nay, sởi vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ em trên toàn cầu, mặc dù đã có một loại vắc xin an toàn và hiệu quả. Khoảng 158 000 người chết vì bệnh sởi năm 2011 chủ yếu là trẻ em dưới 5 tuổi. Bệnh sởi do một loại virus thuộc họ paramyxovirus, thường mọc trong các tế bào nằm ở mặt sau của cổ họng và phổi. Sởi là một bệnh ở người và khôngđược biếtxảy ra ở động vật. Hoạt động tiêm chủng tăng tốc đã có tác động lớn đến việc giảm tử vong do bệnh sởi. Từ năm 2000, hơn một tỷ trẻ em ở các nước có nguy cơ cao được tiêm vắc xin phòng bệnh thông qua các chiến dịch tiêm phòng hàng loạt (mass vaccination campaigns)-khoảng 225 triệu người trong năm 2011. Tử vong do sởi trên toàn cầu đã giảm 71%từ một ước tính là 548.000 xuống còn 158.000.
Các dấu hiệu và triệu chứng (Signs and symptoms)
Dấu hiệu đầu tiên của bệnh sởi thường là sốt cao, bắt đầu từ khoảng 10 đến 12 ngày sau khi có phơi nhiễm với virus và kéo dài từ 4-7 ngày. Các dấu hiệu chảy nước mũi (runny nose), ho (cough), mắt đỏ và chảy nước mắt (red and watery eyes), đốm trắng nhỏ (small white spots) bên trong má có thể phát triển trong giai đoạn đầu. Sau vài ngày, một ban vỡ ra (rash erupts), thường trên mặt và trên cổ. Trong khoảng ba ngày, ban lan toả, cuối cùng đến tay và bàn chân, Phát ban kéo dài 5-6 ngày sau đó mất dần, trung bình phát ban xảy ra 14 ngày sau khi phơi nhiễm với virus (trong phạm vi từ 7 đến 18 ngày). Sởi nặng có nhiều khả năng ở trẻ em được nuôi dưỡng kém, đặc biệt là những người không có đủ vitamin A hoặc hệ thống miễn dịch của họ đã bị suy yếu bởi HIV/AIDS hoặc các bệnh khác.
Hầu hết các trường hợp tử vong liên quan đến bệnh sởi là do biến chứng liên quan với căn bệnh này, phổ biến hơn ở trẻ em dưới 5 tuổi hoặc người lớn trên 20 tuổi. Các biến chứng nghiêm trọng nhất gồm mù mắt (blindness), viêm não (encephalitis)-một bệnh nhiễm trùng gây ra sưng phù não, tiêu chảy nặng (severe diarrhoea) và mất nước liên quan (related dehydration), nhiễm trùng tai (ear infections) hoặc nhiễm khuẩn nặng đường hô hấp (respiratory infections) như viêm phổi (pneumonia). Khoảng 10% các trường hợp bị sởi dẫn đến tử vong trong các quần thể với mức độ cao của suy dinh dưỡng và thiếu sự chăm sóc y tế đầy đủ. Phụ nữ bị nhiễm trong khi mang thai cũng có nguy cơ bị biến chứng nghiêm trọng và mang thai có thể kết thúc trong sẩy thai hoặc sinh non. Người phục hồi từ bệnh sởi cómiễn dịch cho phần còn lại của cuộc đời họ.
Ailà đối tượng có nguy cơ ? (Who is at risk?)
Trẻ em không được chủng ngừa có nguy cơ cao nhất của bệnh sởi và các biến chứng của nó kể cả tử vong, phụ nữ mang thai không được chủng ngừa cũng có nguy cơ và bất kỳ người nào không có miễn dịch (những người đã không được tiêm phòng hoặc đã được tiêm chủng nhưng không phát triển miễn dịch) cũng có thể bị nhiễm trùng.
Sởi vẫn còn phổ biến ở nhiều nước đang phát triển, đặc biệt là trong các vùng thuộc châu Phi và châu Á. Hơn 20 triệu người bị ảnh hưởng bởi bệnh sởi mỗi năm, đại đa số (> 95%) chết do bệnh sởi xảy ra tại các nước có thu nhập bình quân đầu người thấp và cơ sở hạ tầng y tế yếu kém. Sự bùng phát bệnh sởi có thể đặc biệt nguy hiểm ở các nước đang trải qua hoặc hồi phục sau một thảm họa tự nhiên hoặc xung đột, thiệt hại cho cơ sở hạ tầng y tế và dịch vụ y tế làm gián đoạn tiêm chủng thường xuyên và tình trạng quá tải trong các trại tỵ nạn dân cư làm tăng đáng kể nguy cơ nhiễm trùng.
Sự lan truyền (Transmission)
Virus rất dễ lây lây lan qua ho và hắt hơi, tiếp xúc cá nhân gần gũi hoặc tiếp xúc trực tiếp với mũi hoặc dịch tiết cổ họng bị nhiễm trùng. Vi rút vẫn còn hoạt động và lây nhiễm trong không khí hoặc trên các bề mặt bị nhiễm cho đến hai giờ, nó có thể được truyền bởi một người bị nhiễm bệnh từ 4 ngày trước khi bắt đầu phát ban đến 4 ngày sau khi phát ban bùng nổ. Các vụ bùng phát bệnh sởi có thể dẫn đến dịch bệnh gây ra nhiều ca tử vong, đặc biệt là trong giới trẻ, trẻ em suy dinh dưỡng. Ở những nước có bệnh sởi đã được loại trừ phần lớn các trường hợp ngoại lai từ các quốc gia khác vẫn là một nguồn nhiễm trùng quan trọng.
Điều trị (Treatment)
Hiện không có thuốc điều trị đặc hiệu kháng virus cho bệnh sởi. Các biến chứng nặng do sởi có thể tránh được thông qua chăm sóc hỗ trợ để đảm bảo dinh dưỡng tốt, uống nước đầy đủ và điều trị mất nước với giải pháp bù nước đường uống theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Giải pháp này thay thế các dịch và các yếu tố thiết yếu khác bị mất thông qua tiêu chảy hoặc nôn mửa. Thuốc kháng sinh nên được kê đơn để điều trị nhiễm trùng mắt và nhiễm trùng tai và viêm phổi. Tất cả trẻ em ở các nước đang phát triển được chẩn đoán với bệnh sởi phải được điều trị hai liều bổ sung vitaminA,cách nhau 24 giờ nhằm khôi phục mức thấp vitamin A trong bệnh sởi xảy ra ngay cả ở trẻ em có dinh dưỡng tốt và có thể giúp ngăn ngừa tổn thương mắt và mù lòa. Bổ sung vitamin A đã được chứng minh là làm giảm số ca tử vong do bệnh sởi khoảng 50%.
Dự phòng (Prevention)
Thường xuyên tiêm phòng sởi cho trẻ em, kết hợp với các chiến dịch chủng ngừa hàng loạt ở các nước có tỷ lệ tử vong và số ca mắc cao là những chiến lược y tế công cộng quan trọng nhằm làm giảm tử vong do bệnh sởi trên toàn cầu. Vaccin chủng ngừa bệnh sởi đã được sử dụng trong hơn 40 năm an toàn, hiệu quả và không đắt tiền. Chi phí chưa đầy một đô la Mỹ để chủng ngừa cho trẻ em chống lại bệnh sởi. Thuốc chủng ngừa bệnh sởi thường được kết hợp với vaccin rubella và/hoặc quai bị (mumps) ở các quốc gia nơi mà những căn bệnh này là vấn đề. Vaccin có hiệu quả tương đương trong các hình thức đơn lẻ hoặc kết hợp.
Trong năm 2011, khoảng 84 % trẻ em trên thế giới nhận được một liều vắc-xin sởi vào ngày sinh nhật đầu tiên của mình thông qua các dịch vụ sức khỏe định kỳ-tăng từ 72% vào năm 2000. Hai liều vắc-xin là được khuyến cáo để đảm bảo khả năng miễn dịch và ngăn ngừa dịch bệnh, bởi vì khoảng 15% trẻ em được chủng ngừa thất bại để phát triển khả năng miễn dịch từ liều đầu tiên.
Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới(WHO response)
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ 4 (MDG4) nhằm mục đích giảm tỷ lệ tử vong trẻ dưới năm tuổi (reduce the under-five mortality rate) bằng2/3 từ năm 1990 đến năm 2015. Nhận thức được tiềm năng của việc chủng ngừa bệnh sởi để giảm tử vong trẻ em và tỷ lệ tiêm chủng sởi có thể được coi là một dấu hiệu của việc tiếp cận các dịch vụ sức khỏe trẻ em, tỷ lệ tiêm chủng sởi thường xuyên đã được chọn như là một chỉ số về tiến bộ hướng tới việc đạt được MDG 4. Bằng chứng mạnh mẽ cho thấy lợi ích của việc cung cấp tiếp cận phổ cập với vaccin chứa sởi và rubella. Trên toàn cầu, ước tính có khoảng 548.000 trẻ em chết vì bệnh sởi vào năm 2000. Năm 2011, thúc đẩy toàn cầu để nâng cao tỷ lệ tiêm chủng dẫn đến giảm 71% số ca tử vong. Từ năm 2000 với sự hỗ trợ từ sáng kiến Sởivà Rubella(M & R Initative) trên 1 tỷ trẻ em đã đạt được chủng ngừathông qua các chiến dịch tiêm phòng đại trà khoảng 225 triệu liều vào năm 2011.
Sáng kiến M & R là một nỗ lực hợp tác của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp quốc (UNICEF), Hội Chữ thập đỏ Hoa Kỳ, Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) và Quỹ Liên hợp quốc (United Nations Foundation) hỗ trợ các nước để đạt được mục tiêu phòng chống bệnh sởi và rubella. Tháng tư năm 2012, sáng kiến MR phát động một kế hoạch chiến lược rubella và sởi trên toàn cầu giai đoạn 2012-2020 gồm các mục tiêu mới vào năm 2015 và 2020:
Vào cuối năm 2015 (By the end of 2015): giảm tử vong do bệnh sởi trên toàn cầu ít nhất 95% so với năm 2000 (reduce global measles deaths by at least 95% compared with 2000 levels). Đạt được mục tiêu loại trừ bệnh sởi và rubella/hội chứng rubella bẩm sinh (CRS) ở mức vùng (to achieve regional measles and rubella/congenital rubella syndrome elimination goals).
Vào cuối năm 2020 (By the end of 2020): đạt được mục tiêu loại trừ bệnh sởi và rubella trong ít nhất là năm khu vực của WHO (to achieve measles and rubella elimination in at least five WHO regions).
Chiến lược tập trung vào thực hiện năm hợp phần chính nhằm đạt được và duy trì tỷ lệ tiêm chủng cao với hai liều vaccin có chứa sởi và rubella; theo dõi bệnh bằng cách sử dụng giám sát hiệu quả và đánh giá những nỗ lực của chương trình để đảm bảo tiến độ và tác động tích cực của hoạt động tiêm chủng; phát triển và duy trì chuẩn bị sẵn sàng phòng chống dịch, phản ứng nhanh (rapid response) với dịch và điều trị hiệu quả (effective treatment) các ca bệnh; truyền thông và tham gia xây dựng niềm tin công cộng và nhu cầu tiêm chủng; thực hiện các nghiên cứu và phát triển cần thiết để hỗ trợ hoạt động hiệu quả chi phí và cải thiện tiêm chủng và các công cụ chẩn đoán.
Thực hiện kế hoạch chiến lược có thể bảo vệ và cải thiện cuộc sống của trẻ em và các bà mẹ trên toàn thế giới nhanh chóng và bền vững. Kế hoạch cung cấp các chiến lược rõ ràng cho các nhà quản lý tiêm chủng quốc gia làm việc với các đối tác trong nước và quốc tế nhằmđạt được mục tiêu loại trừ và phòng chốngbệnh sởi và rubella vào các năm 2015 và 2020. Kế hoạch được xây dựng trên nhiều năm kinh nghiệm trong việc thực hiện chương trình tiêm chủng và kết hợp các bài học từ tăng tốc sáng kiến thanh toán bại liệt và phòng chống bệnh sởi.