Phát hiện mới có thể trợ giúp trong việc thiết kế vaccine cho một chủng sốt rét phổ biến
Ngày 9/1/2014-Một chủng bệnh sốt rét phổ biến ở Ấn Độ, Đông Nam Á và Nam Mỹ tấn công các tế bào hồng cầu của con người bằng cách kiểm soát chặt chẽ trên các tế bào với một cặp protein, nghiên cứu mới tại Đại học Y khoa Washington (Washington University School of Medicine) ở St Louis đã phát hiện. Nghiên cứu mới cung cấp thông tin chi tiết sẽ giúp các nhà khoa học thiết kế các thuốc điều trị và các vaccine tốt hơn đối với chủng Plasmodium vivax. Niraj Tolia-Phó giáo sư tiến sĩ về vi sinh học phân tử và hóa sinh và lý sinh học phân tử (molecular microbiology and of biochemistry and molecular biophysics) cho biết: "Có nhiều người sống ở trong các vùng có nguy cơ nhiễm chủng sốt rét này hơn bất kỳ chủng sốt rét khác. Chúng tôi hiện đang sử dụng những gì chúng tôi đã học được để tạo ra vắc-xin phù hợp nhằm ngăn chặn quá trình lây nhiễm bằng cách ngăn ngừa ký sinh trùng bám vào các tế bào hồng cầu". Phát hiện này xuất hiện vào ngày 9/1/2014 trên tờ PLoS Pathogens.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính có hơn 200 triệu ca sốt rét vào năm 2012. Chủng sốt rét nguy hiểm nhất của bệnh sốt rét là Plasmodium falciparum và phổ biến nhất ở châu Phi, nhưng chủng P.vivax có thể ẩn trong gan, tái phát trong nhiều năm sau đó để kích hoạt các nhiễm trùng mới và là khó khăn hơn để ngăn ngừa, chẩn đoán và điều trị. Các nghiên cứu trước đây đã gợi ý rằng một protein P.vivax gắn kết với một protein trên bề mặt của các tế bào hồng cầu. Nghiên cứu mới của Tolia tiết lộ rằng sự gắn kết là một quá trình hai bước có liên quan đến hai bản sao của một loại protein ký sinh trùng đến với nhau giống như kẹp xung quanh hai bản sao của một loại protein vật chủ: "Đó là một sự tương tác rất phức tạp và mạnh mẽ về mặt hóa học và không dễ dàng biết trước. Chúng tôi đã gợi ý rằng các chủng khác của bệnh sốt rét, trong đó có chủng sốt rét châu Phi có thể được gắn kết trong một kiểu tương tự tới các tế bào vật chủ nhưng đây là một trong những bằng chứng xác định đầu tiên của loại hình tấn công này". Tolia hoài nghi sự ngăn chặn bất kỳ của các protein với các thuốc hoặc vắc-xin sẽ ngăn chặn quá trình gây nhiễm: "Ví dụ, một số người có một đột biến loại bỏ các protein trên bề mặt tế bào hồng cầu mà P.vivax gắn vào và chúng có xu hướng đề kháng với ký sinh trùng. Đây là lý do tại sao chủng này không là chủng phổ biến ở châu Phi-áp lực tiến hóa đã gây ra cho hầu hết các quần thể ngừng sản xuất loại protein này". Tolia cũng tìm thấy bằng chứng cho thấy những người khác có miễn dịch đối với P.vivax đã phát triển kháng thể xảy ra một cách tự nhiên gắn với một phần quan trọng của protein gắn kết của ký sinh trùng ngăn ngừa việc lây nhiễm: "Protein ký sinh trùng là rất lớn và kháng thể của con người gắn kết với nó ở nhiều điểm khác nhau dọc theo chiều dài của nó" Tolia giải thích: "Chúng tôi quan sát thấy rằng các kháng thể có hiệu quả nhất cho đến nay là những kháng thể gắn kết với các protein ở các khu vực được đánh dấu bởi nghiên cứu mới của chúng tôi".
Điều trị sốt rét đúng liều lượng có thể giúp cải thiện tình hình sốt rét ở trẻ em.
Ngày 3/12/2013-Một phân tích các bệnh nhân từ khắp mọi nơi lưu hành sốt rét trên thế giới cho thấy một điều trị sốt rét mang tính chìa khoá có thể được cải thiện bằng cách dùng liều thuốc tốt hơn ở trẻ em. Đề kháng với thuốc sốt rét (antimalarial drug resistance) đã cản trở các chương trình phòng chống sốt rét trong gần 60 năm qua. Một yếu tố quan trọng trong cuộc chiến chống lại mối đe dọa này là đảm bảo rằng tất cả các thuốc chống sốt rét được triển khai trong một cách đảm bảo rằng số lượng tối đa bệnh nhân được chữa khỏi hoàn toàn.
Một nghiên cứu được công bố tuần này trên tạp chí PLoS Medicine tìm hiểu vấn đề này bằng cách trình bày các kết quả của một phân tích gộp lại của hơn 7.000 bệnh nhân sốt rét từ châu Phi, châu Á và Nam Mỹ. Báo cáo thể hiện một lập luận thuyết phục cho những ngưòi làm chính sách y tế công cộng phải chú ý cẩn thận tới các khuyến nghị về liều dùng cho các liệu pháp kết hợp artemisinin (ACTs) khi xem xét các thí điểm điều trị bằng thuốc hiện nay, đặc biệt đối với trẻ em. Bài báo xem xét sự kết hợp của piperaquine và dihydroartemisinin, một sự lựa chọn ngày càng phổ biến để điều trị cho bệnh nhân bị sốt rét do ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum. Các kết quả nghiên cứu, được điều phối bởi Hệ thống kháng thuốc sốt rét trên thế giới (WorldWide Antimalarial Ressistance Network_WWARN), cho thấy rằng trong khi điều trị sốt rét với dihydroartemisinin - piperaquine nói chung kết quả hồi phục của bệnh nhân rất tốt, nhưng với trẻ em thì nguy cơ bị thất bại cao hơn và điều này có thể là do trẻ em không nhận được một liều thuốc đầy đủ. WWARN đã quy tụ 76 nhà nghiên cứu trên toàn thế giới, những nhà khoa học đã đóng góp dữ liệu bệnh nhân từ 26 nghiên cứu lâm sàng. Những dữ liệu này được sử dụng để phân tích tác động của mức độ liều lượng thuốc khác nhau của ACTs đến hiệu quả điều trị, kết quả mà kết hợp gần như 70% của tất cả các dữ liệu được công bố có sẵn về điều trị này, xác nhận rằng dihydroartemisinin - piperaquine là có hiệu quả rất cao chữa khỏi hơn 97% bệnh nhân. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng một phần ba số trẻ em từ 1-5 tuổi nhận được một liều piperaquine dưới mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới. Hơn nữa, bệnh nhân nhận một liều thấp hơn thì đáp ứng với điều trị chậm hơn và có nguy cơ lớn hơn bị sốt rét một lần nữa.
Tiến sĩ Corine Karema, từ Chương trình phòng chống sốt rét quốc gia (National Malaria Control Program) Rwanda và là đồng tác giả của nghiên cứu, nhấn mạnh rằng: "Điều rất quan trọng là hướng dẫn điều trị khuyến cáo liều lương thuốc sốt rét tối ưu để tối đa hóa mức độ ảnh hưởng của thuốc và đảm bảo tất cả các bệnh nhân chữa khỏi một cách nhanh chóng và hoàn toàn". Kết quả cho thấy tối ưu hóa liều thuốc dihydroartemisinin - piperaquine hơn nữa có thể được chứng thực ở trẻ em. Giáo sư Ric Price, một trong những nhà nghiên cứu dẫn đầu làm việc với WWARN kết luận: "Nghiên cứu này nêu bật những khả năng của các nhà nghiên cứu từ khắp nơi trên thế giới đến với nhau và góp chung dữ liệu của họ cho việc thu thập mang tính tập thể. Sức mạnh của sự hợp tác nghiên cứu như vậy sẽ giúp hỗ trợ tối ưu hóa phương pháp điều trị sốt rét hiện nay, làm giảm sự lây lan của sự đề kháng với thuốc sốt rét và cuối cùng cứu mạng sống con người". Trong một quan niệm liên kết, Paul Garner từ Trường Đại học Y học Nhiệt đới (School of Tropical Medicine) Liverpool, Vương quốc Anh, thảo luận về một số vấn đề liên quan đến tối ưu hóa liều ACT: "Có một hành động cân bằng giữa liều thấp, điều này làm gia tăng nguy cơ phát triển kháng thuốc, và một sự gia tăng liều như thế dẫn đến sự gia tăng độc tính và tác dụng phụ của thuốc".
Điều trị liều thấp Primaquine có thể ngăn chặn sự lan truyền sốt rét
Ngày 14/11/2013-Liều thấp hơn của thuốc kháng sốt rét-primaquine là có hiệu quả như liều cao hơn trong việc làm giảm sự lan truyền sốt rét, theo một nghiên cứu được xuất bản hôm nay trên tạp chí Lancet Infectious Diseases bởi các nhà nghiên cứu thuộc Đại học vệ sinh và nhiệt đới (School of Hygiene & Tropical Medicine) London. Primaquine là một trong số ít các thuốc kháng sốt rét mà đích nhằm vào giai đoạn lan truyền của ký sinh trùng sốt rét, thể giao bào (gamatocytes) và do đó được xem là một công cụ quan trọng trong việc loại trừ bệnh sốt rét (malaria elimination). Tuy nhiên liều chuẩn của thuốc gây ra sự giảm số lượng hồng cầu ở các cá thể bị thiếu hụt men G6PD ( glucose-6-phosphate dehydrogenase enzyme).Sự rối loạn hồng cầu này là phổ biến ở các vùng sốt rét lưu hành và do đó có sựhạn chế việc sử dụng primaquine trong các chương trình sốt rét và nhắc nhở Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tư vấn một sự giảm liều từ 0.75mg/kg xuống còn 0.25mg/kg nhưng cho đến nay hiệu quả của việc sử dụng liều primaquinethấp hơn không được đánh giá một cách chính thức.
Nghiên cứu tiến hành ở Jinja Uganda điều trị ở các trẻ em có men G6PD bình thường với thuốc kháng sốt rét theo quy ước hoặc trên chính nó hoặc với một trong ba liều primaquine khác nhau. Người mang giao bào tiếp theo được giám sát trong vòng hai tuần và kết quả về độ an toàn được giám sát trong vòng bốn tuần. Các kết quả chứng tỏ rằng một liều 0,4mg/kg, xấp xỉ một nữa liều được khuyến cáo trước đó (0,75mg/kg) là có hiệu quả trong việc làm giảm khả nănglan truyền của các cá thể bị sốt rét. Các kết quả này củng cố rằng liều thấp primaquine là vẫn còn hiệu quả và an toàn trong một quần thể thiếu men G6PD và mở đường cho việc sử dụng liều thấp primaquine như là một thành tố trong các chiến lược làm giảm sự lan truyền sốt rét và làm ngừng sự lan truyền ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc (drug-resistant malaria parasites). Bước tiếp theo bao gồm khuyến cáo hiện nay của Tổ chức y tế thế giới là sử dụng liều primaquine 0,25mg/kg để nghiên cứu về tính hiệu quả và các thử nghiệm về độ an toàn trong sử dụng primaquine liều thấp ở các cá thể có thiếu hụt men G6PD. Tiến sĩ Chi Eziefula lãnh đạo nhóm nghiên cứu lâm sàng Wellcome Trust nói: ”Cho đến nay việc sử dụng primaquine bị hạn chế bởi vì các quan ngại về độ an toàn nhưng liều thấp hơn đã không được thử nghiệm một cách chính thức. Các phát hiện này về hiệu quả của primaquine trong sử dụng liều thấp, ám chỉ rằng primaquine có thể giữ một vai trò quan trọng trong các chương trình loại trừ sốt rét. Bây giờ chúng tôi cần đánh giá độ an toàn về liều thấp của primaquine ở các cá thể có thiếu hụt men G6PD .Nhiều câu hỏi hơn vẫn còn cần được trả lời đề cập đến chiến lược thực địa tốt nhất cho việc áp dụng primaquine trong ngăn chặn sự lan truyền sốt rét”. Đồng tác giả nghiên cứu Giáo sự Chris Drakeley, Giám đốc Trung tâm sốt rét thuộc Đại học vệ sinh và y học nhiệt đới London nói: “Nghiên cứu này là một bước quan trọng trong đánh giá primaquine như là một biện pháp ngăn chặn sự lan truyền sốt rét, nghiên cứu hơn nữa là cần thiết để chứng tỏ việc làm giảm sự gây nhiễm cho muỗi và xác định độ an toàn được cải thiện của các liều thấp hơn này.” Giáo sư Moses Kamya của Trung tâm hợp tác nghiên cứu bệnh nhiễm khuẩn (Infectious Disease Research Collaboration) ở Kampala, Uganda nói: “Nghiên cứu này cung cấp thông tin quan trọng mới nhất cho phép các chương trình phòng chống sốt rét ở các quốc gia lưu hành tại Châu Phi cân nhắc việc sử dụng primaquine như là một phần trong các nỗ lực của họ để giải quyết căn bệnh giết người này”.
Sự sắp xếp chỗ ngủ là một biện pháp trong phòng chống bệnh sốt rét
Ngày 18/11/2013-Phòng chống bệnh sốt rét (malaria control) tốt hơn có thể đến từ việc sắp xếp chổ ngủ ở các hộ gia đình, theo một nghiên cứu mới là đồng tác giả của một giáo sư từ trường Đại học Guelph.Các nhà nghiên cứu phát hiện việc thanh toán bệnh sốt rét có liên quan nhiều đến kích thuớc hộ gia đình (household size) hơn là nhiệt độ hoặc sự giàu có của một quốc gia. Giáo sư kinh tế Ross McKitrick tại Đại học Guelphvà hai giáo sư Phần Lan là Larry và Lena Huldénthấy rằng khi bình quân kích thước mỗi hộ gia đình giảm xuống dưới bốn người thì việc tiêu diệt bệnh sốt rét có nhiều khả năng hơn.
Bệnh sốt rét lây truyền bởi muỗi bị nhiễm bệnh, nhóm nghiên cứu đã kiểm tra dữ liệu về côn trùng sốt rét cũng như các yếu tố nhân khẩu học, xã hội học và môi trườngtại 232 quốc gia thấy bệnh sốt rét vẫn còn phổ biến trong 106 quốc gia. McKitrick nói: "Khi chúng tôi kiểm tra tất cả các biến số thì yếu tố có sức mạnh giải thích nhất về phòng chống bệnh sốt rét là kích thước hộ gia đình. Muỗi mang sốt rét chủ yếu hút máu vào ban đêm, và có xu hướng quay trở lại vị trí cũ để tiêu máu (blood meals). Càng có nhiều người ngủ trong một khu vực thì khả năng của một con muỗi bị nhiễm bệnh lây lan ký sinh trùng đến với một nạn nhân mới không bị nhiễm bệnh càng lớn". Bệnh sốt rét gây nhiễm các tế bào hồng cầu và có thể gây thiếu máu, buồn nôn, sốt và trong một số trường hợp có thể tử vong, mỗi năm có 225 triệu người bị nhiễm sốt rét và 800.000 người chết, chủ yếu là trẻ em.
Theo McKitrick: "Có một quan niệm sai lầm phổ biến cho rằng sốt rét là một bệnh nhiệt đới với 90 phần trăm các ca tử vong do sốt rét đang diễn ra ở châu Phi, và rất dễ dàng để xem lý do tại sao mọi người tin điều này. Tuy nhiên về mặtlịch sử, bệnh sốt rét đã xảy ra trong tất cả các vùng khí hậu bao gồm cả Bắc cực và bệnh sốt rét lưu hành ở Bắc Mỹ và châu Âu cách đây 100 năm. Trong nhiều trường hợp, bệnh biến mất ngay cả ở các nước đã không nỗ lực để chống lại nó, trong khi những nước khác đã cố gắng để thanh toán nhưng thất bại. Chúng tôi tìm thấy giảm kích thước hộ gia đình trung bình là yếu tố quan trọng để giải thích mô hình này". Các nhà nghiên cứu đã xem xét các yếu tố như tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người, đô thị hóa và các khu ổ chuột, vĩ độ, nhiệt độ trung bình, độ che phủ rừng, sử dụng DDT ở quy mô quốc gia, kích thước hộ gia đình và ngay cả tôn giáo. Các quốc gia có dân số Hồi giáo lớn thường có các hộ gia đình lớn nhưng đã làm một công việc thanh toán sốt rét tốt hơn vì vậy các nhà nghiên cứu suy đoán có thể là do sự sắp xếp chỗ ngủ tách biệt của họ, mam và nữ thường ngủ trong các khu vực riêng biệt. Khi kích thước hộ gia đình tiếp tục giảm, McKitrick cho biết bệnh sốt rét dần dần biến mất nhưng các nước không cần phải chờ đợi điều đó xảy ra.Ở Vanuatu với mức trung bình 5,6 người mỗi hộ gia đình việc cung cấp màn chống muỗi và công tác giám sát, phân phối thuốc có hiệu quả từ năm 1996 đã tiêu diệt bệnh sốt rét. "Yếu tố quan trọng là phân chia chỗ ngủ và sử dụng nhiều hơn màn ngủ ở các nước mà bệnh sốt rét vẫn còn phổ biến", ông nói: “Màn ngủ cá nhân có thể đưa vào với nhiều phòng ngủ trong một hộ gia đình và điều này sẽ gây khó khăn cho những con muỗi truyền ký sinh trùng sốt rét tới các thành viên khác trong gia đình".