Sốt rét gây tử vong nhiều hơn cả cúm A(H1N1)
Có lẽ lời cảnh báo về đại dịch cúm A(H1N1) đã khiến chúng ta ngầm so sánh với một số căn bệnh truyền nhiễm khác mà chúng đã gây ra cái chết cho hàng triệu người và ngày hôm qua vào lúc 14 giờ (GMT) ngày 11 tháng 6 năm 2009, đứng trước tình hình dịch cúm A/H1N1 lan rộng trên toàn cầu như thế, Tổng giám đốc tổ chức Y tế thế giới – bà Margaret Chan đã công bố đại dịch cúm, nghĩa là sau 41 năm đại dịch cúm công bố trở lại. Và nhớ mãi thời điểm mà đại dịch cúm đã giết chết 144 người trên thế giới, với 1300 ca đã được báo tại Úc và đồng thời nhiều cộng đồng khác tại Chile, Nhật Bản, Mỹ cũng xảy ra nhiều vụ dịch. Bà Chan cho biết các nhà khoa học kết luận sự lan truyền hiện nay là không thể dừng được ("unstoppable"), nên quyết định nâng mức cảnh báo lên mức 6 là mức cao nhất và công bố đại dịch là cần thiết vào lúc này.
Nếu virus vẫn duy trì mức độ độc lực của nó thì các chuyên gia tiên đoán một nhóm dân sẽ bị nhiễm vào mùa thu này và có thể có 36.000 ca tử vong-gấp 3 lần so với cúm mùa thông thường. Nhưng điều đó chỉ “có thể” chứ không phải “sẽ”. Nếu nhìn lại HIV/AIDS là một ví dụ, có thể xem đó là một đại dịch, chí ít nó cũn đã lan rộng khắp châu Phi 30 năm qua. Năm 2007, các bệnh lý liên quan đến AIDS đã cướp đi sinh mạng 2 triệu người trên toàn thế giới, gồm 270.000 trẻ em. Nhưng vì 2/3 trong số 33 triệu người nhiễm HIV hàng năm sống trong vùng cận sa mạc Sahara, châu Phi và sẽ còn nữa và nhóm nguy cơ cao như là người nghiện chích ma túy.
Hoặc như so với sốt rét, ở khu vực tây Cambodia-nơi mà các nàh khoa học đang báo cáo rằng có dấu hiệu đầu tiên về kháng thuốc artemisinin. Sốt rét, đi kèm theo tiêu chảy và viêm phổi sẽ là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em tại đất nước Cambodia. Tại Uganda và một số quốc gia có vùng lan truyền sốt rét cao ở châu Phi cũng là nguyên nhân chính gây bệnh và tử vong ở phụ nữ mang thai (Tổ chức y tế thế giới ước tính con số chết khổng lồ ở châu Phi mỗi ngày, phần lớn là phụ nữ mang thai và trẻ em). Không giống như cúm, đến nay chúng ta vẫn chưa có mọt vaccine phòng bệnh sốt rét. Ngoài ra, artemisinin hiện đang là thuốc lựa chọn số 1 ở phần lớn các quốc gia trên thế giới để điều trị sốt rét và dây cũng là nhóm thuốc điều trị hiệu quả chống lại các dòng ký sinh trùng kháng thuốc của căn bệnh do ký sinh trùng gây ra này. Mặt khác, nếu kháng thuốc với artemisinin lan rộng như đã từng xảy ra đối với thuốc chloroquine trong những năm 1960 thì điều nay coi như rất phức tạp và không thể ngăn chặn sốt rét. Tuy nhiên, như với HIV, các dòng ký sinh trùng sốt rét phức tạp hơn khi không chống lại được coi như một người ra đi mà một người chết không có nghĩa chỉ có người đó mà có thể là một cộng đồng lớn khi thuốc đó không còn hiệu lực.
Đại dịch cúm A/H1N1 đã tác động đến gia đình của một tài xế taxi và cả hàng triệu gia đình ở Briton giống như anh tài xế taxi kia là một ví dụ mô phỏng thú vị . Khác với các dòng virus cúm mùa, virus cúm A/H1N1 này nguy hiểm hơn và đáng sợ hơn cho các trẻ em và người già trên 65 tuổi, cúm A/H1N1 giống như cúm A/H1N1 năm 1918 tại Tây Ban Nha không ? Do vậy, việc Tổ chức Y tế thế giới ra tuyên bố đại dịch rất là quan trọng và có những bước ứng phó trong mùa thu đến, hiện tại các chuyên gia y tế tiên đoán lượng vaccine sản xuất ra chỉ đủ số ít người. Tuy nhiên, các quan tâm về đại dịch cúm kèm theo các cảnh báo cũng như chủ động phòng bệnh tích cực.
Trước đây quan điểm của WHO về đại dịch cúm khác với hiện nay là tùy thuộc vào tình hình bệnh dịch cũng như mức độ nguy hiểm của cúm A/H1N1.Nếu chúng ta sợ đại dịch cúm có thể giúp chúng ta cảm thông với hoàn cảnh của những nạn nhân bị mắc bệnh truyền nhiễm và cần có sự kết nối toàn cầu để có định hướng cải thiện sức khỏe tôt hơn. Tương tự như virus HIV và các dòng ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, H1N1 cũng nên được xem trọng ở biên giới.
Sốt rét gia tăng ở Udupi
Có sự gia tăng số ca sốt rét ở quận Udupi năm nay, với 414 ca được báo cáo từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2009. Bộ phận chăm sóc sức khỏe và gia đình chắc rằng những công dân sẽ không đối đầu với các dấu hiệu nguy hiểm khi họ được trang bị đầy đủ các biện pháp phòng bệnh hợp lý. Trong số 414 ca sốt rét năm nay, chỉ có 22 trường hợp được chẩn đoán là nhiễm Plasmodium falciparum (PF). Trong một giai đoạn tiếp theo đó, PF có thể dẫn đến suy thận và các biến chứng lên gan và có thể gây tử vong. Văn phòng phụ trách sốt rét ở quận Udupi, đứng đầu là tiến sĩ Seetharam Shetty cho biết Plasmodium vivax (PV) và PF được xem là những ca chủ yếu ở quận này. Vì tình hình sốt rét chủ yếu lan rộng do muỗi Anopheles, người ta khuyên cáo sử dụng các bienẹ pháp để tránh muỗi đốt. Các nguồn lây nhiễm khác như truyền từ mẹ sang con cũng được xem là có nhưng rất hiếm.
Nước tù đọng là trung tâm của nơi muỗi sinh sôi. Với các hoạt động liên quan đến cơ sở hạ tầng tăng lên sẽ giảm đi đáng kể tình hình sốt rét. Làm sạch nước tù đọng, tiêu diệt hết lăng quăng, bọ gậy thông qua sử dụng dung dịch xử lý, cá Gappi thả vào trong các vật dụng, thùng và chum vại lớn (có sử dụng và không sử dụng), phun trong nhà bằng các thuốc diệt côn trùng khác là một số biện pháp nhằm phòng chống sốt rét tại quận này.
Sốt rét đã gây ra 200.000 ca phụ nữ mang thai có thai chết lưu
Tiến sĩ Emmanuel Ahiable, giám sát viên y khoa cao cấp tại bệnh viện quận Mampong của châu phi cho biết có khoảng 200.000 ca thai chết lưu do sốt rét trên các phụ nữ mang thai. Trong một bài phỏng vấn với tạp chí Ghana News Agency tại Mampong, ông ta cho biết khu vực cận sa mạc Saharan, châu Phi hầu như đều đối mặt với sốt rét. Tiến sĩ Ahiable cho rằng sốt rét tại các vùng lưu hành nặng ở Ghana và trong số đó các phụ nữ mang thai là đối tượng dễ nhạy cảm, cụ thể số ca như thế chiếm 28.1% số bệnh nhân điều trị ngoại trú, 13.7% số nhập viện điều trị và 9% số ca tử vong của sản phụ. Tác động hoặc ảnh hưởng của sốt rét lên mẹ và con là một hậu quả lớn, có thể dẫn đến một số hậu quả nặng trên các cơ địa như thế như thiếu máu, phù phổi, sốt rét ác tính thể não và sốt rét bẩm sinh.
Tiến sĩ Ahiable lưu ý rằng các phụ nữ mang thai dễ bị bệnh gấp 4 lần so với các phụ nữ khác và có thể là nguyên nhân gây thiếu máu dẫn đến tử vong chính trên các phụ nữ mang thai và trẻ em dưới 5 tuổi.
Đây cũng là vấn đề y tế công cộng, có tính đe dọa đến cả người mẹ, phôi thai và ngay cả các trẻ sơ sinh. Tiến sĩ Ahiable nói thêm, việc sử dụng các màng tẩm hóa chất (Insecticide Treated Nets_ITNs) đã chứng minh tính hiệu quả trong việc làm giảm sốt rét và các vấn đề y tế liên quan, do đó điều này nên được đẩy mạnh và khuyến khích cho tất cả bà mẹ mang thai sử dụng và nằm màn. Ông ta cũng kêu gọi nên áp dụng liên tục việc phun tồn lưu trong nhà (Indoor Residual Spraying_IRS) để hạn chế muỗi truyền bệnh sốt rét. Tiến sĩ Ahiable cũng chỉ ra rằng khi áp dụng IRS cho toàn bộ cộng đồng, tỷ lệ mắc mới sốt rét giảm đi đáng kể và phụ nữ mang thai ở cộng đồng được bảo vệ rất nhiều. Các biện pháp bảo vệ khác như dùng chất xua muỗi cũng tỏ ra hiệu quả.
E sơ đối với tình trạng kháng thuốc sốt rét mới
Kháng thuốc lần đầu tiên phát hiện tại tỉnh Pailin, phía tây của Cambodia, trong một ngôi làng nhỏ, các nhà khoa học đã khó xử không hiểu tại sao ký sinh trùng sốt rét dường như đang phát triển kháng thuốc và sự lo sợ đó đã thành. Cách nay 10 ngày, Chhem Bunchhin-một giáo viên ở tỉnh Battambang bị ốm, lên cơn sốt, run lạnh, nhức đầu và nôn mửa. Nhập viện vào trung tâm y tế gần nhất và được điều trị bằng loại thuốc sốt rét. Điều trị này với artesunate là một phần nghiên cứu được tiến hành do Viện Nghiên cứu khoa học y học của quân đội Mỹ (US Armed Forces Research Institute of Medical Science_AFRIMS).
Trước đây, artesunate luôn luôn làm sạch ký sinh trùng trong máu chỉ 2-3 ngày. Nhưng trên bệnh nhân này sau 4 ngày giám sát điều trị, bệnh nhân Chhem Bunchhin vẫn còn ký sinh trùng trong máu. Tiến sĩ Delia Bethell-một nghiên cứu viên đang thử nghiệm lâm sàng cho biết không chỉ ca này mà khoảng 90 bệnh nhân đưa vào nghiên cứu thì có đến 1/3-1/2 bệnh nhân vẫn còn dương tính với ký sinh trùng sau 3 ngày điều trị, thậm chí 4-5 ngày. Tiến sĩ Delia Bethell (xem ảnh) cho biết có vẻ như artesunate tác dụng chậm hơn trước đây, có thể ký sinh trùng đang có vấn đề về dung nạp thuốc hoặc giảm nhạy với thuốc nhưng không ai biết lý do tại sao. Với những kết quả sớm này đòi hỏi phải điều tra làm rõ. Cũng có thể liên quan này bắt đầu cho một quá trình xuất hiện kháng thuốc với các thuốc trong họ artemesinin. Nếu đây là tình trạng kháng thì quả thật là một thảm họa vì đây là nhóm thuốc hiệu quả nhất hiện nay. Không biết sẽ có nhóm thuốc mới nào đưa vào chương trình phòng chống điều trị sốt rét trong vài năm đến hay không? Đó cũng là điều lo ngại của các nhà khoa học hiện nay, đặc biệt nó đang diễn ra tại phía tây của Cambodia và cũng theo hướng này sẽ lan rộng chăng. Không ai chắc chắn rằng tại sao vùng này có vẻ là tâm điểm chăm sóc cho một quá trình kháng thuốc sốt rét. Một yếu tố có thể là do việc sử dụng thuốc không hợp lý liên quan đến thiếu sự giám sát. Hệ thống y tế công cộng yếu cũng là một vấn đề, các cơ sở y tế nhà nước thường cạn kiệt thuốc sốt rét, hoặc có thể đóng của lúc bệnh nhân đến, nhân lúc đó nhiều bệnh nhân tìm đến các cơ sở y dược tư nhân để mua thuốc sốt rét. Vấn đề thuốc giả và thuốc kém chất lượng cũng không phải nhỏ. Giáo sư Nick White, giám đốc đơn vị nghiên cứu bệnh nhiệt đới tại Thái Lan (Mahidol-Oxford Tropical Medicine Research Unit) cũng đang có những thử nghiệm trong vùng này, ông cùng với các cộng sự tìm các thuốc loại artesunate bắt đầu giảm hiệu quả.
Tình hình kháng thuốc này là một tín hiệu cảnh báo khẩn cấp vì nó có thể lan rộng ra toàn cầu. Kháng với các thuốc sốt rét trước đây đã gây thiệt hại và chịu trách nhiệm bao nhiêu cái chết tại châu Phi. Nếu điều này xảy ra tương tự lần nữa, thì ký sinh trùng kháng thuốc lan rộng từ châu Á đến châu phi, sẽ trở thành thảm họa lớn đặc biệt cho chương trình phòng chống sốt rét.