Ủy ban tư vấn về chính sách sốt rét
Ủy ban tư vấn về chính sách sốt rét (MPAC) đã được thành lập vào năm 2011 nhằm cung cấp tư vấn độc lập với Tổ chức Y tế thế giới (WHO) về phát triển các khuyến cáo chính sách nhằm phòng chống và loại trừ sốt rét. Một nhóm tư vấn độc lập tập hợp các chuyên gia hàng đâu của thế giới về sốt rét, MPAC cung cấp hướng dẫn kỹ thuật mang tính chiến lược đến WHO như là một phần của sự minh bạch, đáp ứng và quá trình thiết lập chính sách đáng tin cậy về sốt rét. MPAC tư vấn đến Tổng giám đốc Tổ chức y tế thế giới đặc biệt về các chính sách sốt rét thích hợp và các tiêu chuẩn dựa trên dữ liệu từ việc thực hiện chương trình sốt rét của các thành viên và các đối tác phòng chống sốt rét cũng như điểm lại chứng cứ sẵn có tốt nhất; cam kết của WHO về các sáng kiến có liên quan đến sốt rét; các thách thức và các vấn đề chính yếu để đạt được các mục tiêu sốt rét trên toàn cầu và xác định các hoạt động ưu tiên để giải quyết các thách thức đã được xác định.
Các nỗ lực phòng chống sốt rét trên diện rộng trong những năm gần đây cùng với các đầu tư to lớn trong nghiên cứu sốt rét đã tạo ra các tác động về y tế công cộng to lớn ở một số quốc gia, và đã đưa đến sự phát triển các chiến lược và công cụ mới nhằm mục đích đạt được các mục tiêu phòng chống sốt rét bền vững xa hơn Kết quả là, có một nhu cầu tăng trưởng với WHO nhằm điểm lại sự gia tăng nhanh chóng số lượng các chứng cứ và cập nhật các khuyến cáo mang tính kỹ thuật. MPAC được thiết lập theo sau một sự điểm lại tiến trình chính sách mạnh mẽ trong phòng chống và loại trừ sốt rét được bắt đầu bởi chương trình phòng chống sốt rét toàn cầu. Quá trình được thực hiện với sự giúp đỡ của một nhóm tư vấn bên ngoài được triệu tập đặc biệt, WHO điểm lại quá trình thực hiện chính sách của WHO/GMP trước đó và hiện có và các mô hình chính sách thành công từ các Khoa khác của WHO. Đó là nhóm này đề xuất các quan niệm và cấu trúccủa một ủy ban tư vấn chính sách thường trực. Cuộc họp đầu tiên của MPAC được tổ chức vào tháng giêng năm 2012. Các khuyến cáo và kết luận của MPAC được phát hành trên trang web này, và các báo cáo chi tiết của mỗi cuộc họp được phát hành trên tạp chí sốt rét.
Các nhóm chuyên gia kỹ thuật và các nhóm điểm lại chứng cứ. Dưới sự ủng hộ của MPAC ba nhóm chuyên gia kỹ thuật thường trực (TEGs) đã được thiết lập : về hóa trị liệu, về kháng thuốc và chính sách ngăn chặn, và về phòng chống vector. Ngoài ra, ba nhóm điểm lại chứng cứ đặc biệt và giới hạn thời gian (ERGs) đã được thiết lập để điểm lại và cung cấp thông tin dựa vào chứng cứ và các sự lựa chọn cho các khuyến cáo. Các khuyến cáo xuất hiện từ TEGs và ERGs được bàn thảo bởi MPAC đầy đủ trong các phiên họp mở rộng.
Một cỗ máy chống sốt rét (Malaria-Fighting Machie) tốt hơn
Ngày 10/9/2013-Mặc dù giai đoạn sốt rét ở gan không có triệu chứng (asymptomatic liver stage) là một phần quan trọng trong sự phát triển của ký sinh trùng bên trong con người, nó vẫn là một hộp đen (black box) chưa được khám phá. Gần đây các nhà khoa học đều tin rằng ký sinh trùng sốt rét đã rất thành thạo trong việc tiếp quản các tế bào gan đến nỗi mà bất kỳ nỗ lực của các tế bào gan để tấn công các ký sinh trùng sẽ là vô ích. Bây giờ các nhà nghiên cứu tại Seattle BioMed đang sử dụng các hệ thống sinh học (systems biology) để bắt đầu làm sáng tỏ một phần của bí ẩn này với việc phát hiện các tế bào gan bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét dễ bị tổn thương hơn so với suy nghĩ trước đây và các loại thuốc hiện có có thể được thừa hưởng để buộc các tế bào bị nhiễm bệnh (infected cells) tự phá hủy trong khi để lại các tế bào khỏe mạnh còn nguyên vẹn. Những kết quả này được công bố trong tháng này trong Cell Death và Disease.
Sốt rét mục tiêu là gan (Malaria targets the liver)
Khi muỗi nhiễm sốt rét (malaria-infected mosquito) đốt người, ký sinh trùng di chuyển từ tuyến nước bọt của muỗi tới gan, nơi chúng tìm thấy và chiếm một tế bào. Trong 7 đến 10 ngày sau, ký sinh trùng nhân lên hơn hàng trămngàn lần làm sưng phồng đáng kể kích thước của tế bào gan nhưng không gây các triệu chứng khác. Cuối cùng, các ký sinh trùng phóng thích vào dòng máu (parasites burst into the blood stream) gây ra các triệu chứng bao gồm sốt, ớn lạnh, buồn nôn và trong một số trường hợp tử vong. Sốt rét giết chết gần một triệu trẻ em mỗi năm và cứ mối 43 giây có một đứa trẻ chết vì căn bệnh này. Sự hiểu biết về mặt khoa học thông thường đề cập "giai đoạn gan" (liver stage) của bệnh là giai đoạn mà ký sinh trùng sốt rét làm cho tế bào vật chủ của chúng đề kháng đến cái chết một cách khác thường. Điều này có nghĩa là sự bắn phá gan với các loại thuốc làm cho tế bào chữa trị sự tự sát của tế bào hoặc apoptosis sẽ phá hủy các tế bào gan khỏe mạnh trong khi cho phép các tế bào bị nhiễm bệnh thoát nạn. Bây giờ, dữ liệu mới được thu thập bởi các tiến sĩ Alexis Kaushansky và Stefan Kappe của Seattle BioMed chuyển mô hình này.
Tìm kiếm các lỗ hổng trong phòng thủ của bệnh sốt rét (Finding the vulnerabilities in malaria's defenses)
Nghiên cứu được xuất bản trong tháng này trong Cell Death và Disease là bước đột phá lớn thứ hai trong lĩnh vực này trong những tháng gần đây. Trong tháng ba, Kaushansky và Kappe chứng minh rằng các tế bào bị nhiễm bệnh sốt rét không phải là tế bào sống sót không thể phá hủy như suy nghĩ trước đây. Bằng cách sử dụng các loại thuốc để kích thích p53, một phân tử ức chế khối u cổ điển, Kaushansky và Kappe đã có thể giúp các tế bào gan chống lại ký sinh trùng sốt rét. Phần của hiểu biết này đã khiến họ tự hỏi: Có bao nhiêu mục tiêu khác có thể làm cho các tế bào bị nhiễm bệnh sốt rét dễ bị tổn thương ? Có phải bể chứa của các loại thuốc có hiệu quả có thể nhắm mục tiêu ký sinh trùng sốt rét trước khi chúng gây ra các triệu chứng lớn hơn chúng ta tưởng tượng ?
Mục đích là đơn giản là tìm một con đường đó, khi các tế bào được kích hoạt giết chết các tế bào bị nhiễm trong khi để lại các tế bào khỏe mạnh không bị ảnh hưởng và loại bỏ ký sinh trùng sốt rét trước khi chúng gây bệnh. Kaushansky đã nhận thấy trong các nghiên cứu trước đây cho rằng tế bào bị nhiễm cho thấy mức độ cao hơn của các phân tử sống sót-những tế bào mà bị ức chế bởi quá trình apoptosis trong ty thể. Nếu các tế bào kích thích tự giết chúng sử dụng con đường đặc biệt sẽ dẫn đến nhiềutổn thương hơn cho các tế bào bị nhiễm bệnh với rất ít hoặc không có trong các tế bào khỏe mạnh. Bằng cách cung cấp các tác nhân nhạy cảm hóa trị liệu nhắm mục tiêu đến một phân tử gọi là Bcl-2, Kaushansky đã có thể kích thích quá trình tự chết tế bào làm cho các tế bào bị nhiễm ký sinh trùng tự sát trong khi để lại các tế bào gan khỏe mạnh chủ yếu còn nguyên vẹn. Phát hiện này đại diện cho một cách cơ bản mới để tiêu diệt ký sinh trùng sốt rétkhi ở trong gan.
Phát hiện ra một loạt các vũ khí đã theo ý của chúng tôi chống lại bệnh sốt rét (Uncovering the range of weapons already at our disposal against malaria)
Theo Kaushansky: "Sốt rét vẫn còn đe dọa 1/4 dân số thế giới dù đã trải qua những nỗ lực loại trừ hàng thập kỷ và do đó để chống lại căn bệnh này một cách hiệu quả thìmột cách tiếp cận mới phải được thực hiện. Sử dụng hệ thống sinh học, cho thấy sự tồn tại của con đường bổ sung có thể được sử dụng để chống lại các tế bào bị nhiễm, chứng minh rằng nghiên cứu trước đây liên quan đến p53 không phải là một trường hợp cá biệt và chỉ mới bắt đầu làm xước bề mặt của những cách mở rộng các loại liệu pháp dựa trên vật chủ này có thể được". Phạm vi rộng hơn các mục tiêu có nghĩa là khả năng thuốc để chống lại giai đoạn gan của bệnh sốt rét là lớn hơn nhiều so với suy nghĩ trước đây. Kappe nói: "Trong nghiên cứu này chúng tôi tìm kiếm một con đường hoàn toàn riêng biệt, hoạt động bằng một cơ chế hoàn toàn khác nhau và nó vẫn làm việc để giúp tiêu diệt các tế bào bị nhiễm bệnh. Điều này cho phép hy vọng có rất nhiều con đường khác cũng có thể làm việc như các loại thuốc vào đích và chúng tôi mong muốn tiến hành nghiên cứu bổ sung vào các con đường tiềm năng khác mà cũng có thể có tiềm năng điều trị bệnh sốt rét". Kaushansky giải thích sử dụng các loại thuốc hiện có nhắm mục tiêu vào giai đoạn gan của bệnh sốt rét cũng mang lợi ích tiềm năng khác, bởi vì các loại thuốc thử nghiệm đã được phát triển cho các mục đích khác, có những lợi ích kinh tế đáng kể trong việc đặt lại mục tiêu các loại thuốc trị bệnh sốt rét. Ngoài ra, do các loại thuốc nhắm mục tiêu các tế bào gan vật chủ chứ không phải là ký sinh trùng, khả năng kháng thuốc phát triển chống lại các liệu pháp này là khá thấp hơn: "Điều này về cơ bản có thể thay đổi cách chúng ta nghĩ về cuộc chiến với ký sinh trùng sốt rét".
Chính sách ngăn chặn sự đề kháng với artemisinin
Plasmodium falciparum kháng artemisinin lần đầu tiên được xác nhận trên biên giới Campuchia-Thái Lan vào năm 2008 và bây giờ hiện hữu trong bốn quốc gia thuộc Tiểu vùng sông Mekong: Campuchia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Sự lây lan đề kháng với artemisinin tới các khu vực khác, hoặc xuất hiện độc lậptrong các phần khác của thế giới, có thể gây ra tình trạng khẩn cấp y tế công cộng chính yếu. Do đó hành động khẩn cấp được đòi hỏi bởi các quốc gia lưu hành và các đối tác phát triển để ngăn chặn tình hình xấu đi.
Vào tháng Giêng 2011, WHO công bố Kế hoạch toàn cầu về chính sách ngăn chặn sự đề khángvới artemisinin (GPARC) kêu gọi các quốc gia lưu hành sốt rét và các bên liên quan để mở rộng quy mô hoạt động ngăn chặn trong các nước bị ảnh hưởng, và thực hiện một kế hoạch toàn diện trong các vùng lưu hành khác để ngăn chặn sự xuất hiện đề kháng. Tiểu vùng sông Mê Kông từ lâu đã là tâm điểm của sốt rét kháng thuốc. Trong nhiềuthập kỷ qua, sự lây lan của ký sinh trùng kháng thuốctừ khu vực này đến Ấn Độ và Châu Phi dẫn đến sự gia tăng đáng kể gánh nặng sốt rét toàn cầu. Hiện nay, WHO khuyến cáo các liệu pháp kết hợp artemisinin (ACTs) trong điều trị bệnh sốt rét không biến chứng do P. falciparum. ACTs đã được gắn liền với những thành công đáng kể gần đây trong phòng chống sốt rét toàn cầu, và có sự đồng thuận rộng rãi rằng bảo vệ hiệu lực của ACTs là một ưu tiên cấp bách. Nỗ lực ngăn chặn hiện nay đang diễn ra trong tất cả bốn quốc gia đã được xác định hoặc nghi ngờ kháng thuốc. Trong khu vực có bằng chứng về kháng artemisinin, một phản ứng ngay lập tức, toàn diện với một sự kết hợp của các biện phápphòng chống và loại trừ sốt rét là cần thiết để ngăn chặn sự lây lan của ký sinh trùng kháng thuốc. Ngay khi kháng artemisinin đã được phát hiện, có nhiều khả năng đề kháng với các loại thuốc đối tác (các loại thuốc được sử dụng trong kết hợp với artemisinin như một phần của ACTs) cũng sẽ phát triển, và ngược lại. Do đó, ký sinh trùng kháng thuốc kết hợp cũng là một vấn đề quan trọng và cần được theo dõi. Những nỗ lực để ngăn chặn sự đề kháng với artemisinin trong Tiểu vùng sông Mê Kông có hiệu quả ở nơi thực hiện, nhưng các chương trình bây giờ cần phải được tăng cường và mở rộng. Điều này đòi hỏi mở rộng quy mô nhanh chóng các biện pháp phòng chống sốt rét cốt lõi, các khoản đầu tư đáng kể trong việc giám sát hiệu lực của thuốc, và mở rộng khả năng tiếp cận chẩn đoán và đảm bảo chất lượng về thuốc chống sốt rét thích hợp tại địa phương. Ngoài ra còn có một nhu cầu rất lớn để có hành động đẩy nhanh việc loại bỏ các đơn trị liệu artemisinin bằng đường uống từ các thị trường, cùng với thuốc chống sốt rét không đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, như đã được kêu gọi của Đại hội đồng Y tế Thế giới.
Như vậy đến nay, sựđề kháng với artemisinin đã được xác định chủ yếu là gần biên giới quốc tế và trong khu vực có một số lớn người di cư. Trong khi các hoạt động ở cấp quốc gia là rất cần thiết thì hoạt động hợp tác xuyên biên giới và khu vực mạnh mẽ cũng rất quan trọng để kiềm chế và tiến tới loại bỏ sự đề kháng với artemisinin. Vào đầu năm 2013, WHO thành lập một trung tâm khu vực tại Phnom Penh, Campuchia để điều phối các nỗ lực đa đối tác nhằm mở rộng những nỗ lực ngăn chặn trong Tiểu vùng sông Mê Kông.