Sốt rét được mệnh danh là vua của các bệnh ('King of Diseases') là một bệnh đang nỏi lên và là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Gần tiến đến loại trừ ở một số quốc gia, song hàng năm bệnh sốt rét vẫn ảnh hưởng đến hơn 300 triệu con người và giết chết hơn 3 triệu người. Căn bệnh khủng khiếp này thật khó để loại trừ và phòng chống nó chỉ trừ khi có sự nỗ lực và phối hợp của toàn cộng đồng và các chính phủ cũng như toàn nhân lực y tế. Hệ thống cảnh báo cũng đã cho biết đến toàn cầu đang gia tăng một mật độ muỗi ghê gớm và điều đó không chỉ góp phần làm tăng mỗi bệnh sốt rét mà còn tăng cả các bệnh do vector truyền (muỗi) như sốt xuất huyết Dengue và bệnh Chikungunya. Thời khắc đã đến và chúng ta cần hành động. Nhiều trang web nổi tiếng có hàng chục năm và một số trang tin ra đời nhằm hõ trợ và giúp đỡ, cũng như chia sẻ và cung cấp thông tin cạp nhất về tình hình sốt rét trên thế giới liên tục. Dưới đây là một số thông tin cập nhật rút ra từ các nghiên cứu trên thế giới được đăng tải.
Chẩn đoán quá mức về sốt rét: có phải là vấn đề áp lực bệnh nhân?
Nghiên cứu trên được nhiều chuyên gia hàng đầu về sốt rét toàn cầu như Clare I R Chandler, Rose Mwangi, Hilda Mbakilwa, Raimos Olomi, Chris J M Whitty và Hugh Reyburn hiện đang làm việc tại Khoa truyền nhiễm, trường đại học y học nhiệt đới và vệ sinh Luân Đôn, WC1E 7HT, UK, Chương trình sốt rét phối hợp tại Tanzania, Kilimanjaro Christian Medical Centre, PO Box 2228, Moshi, Tanzania tiến hành cho biết: ở châu Phi thuốc sốt rét thường được kê đơn khi sốt rét không có thể nghĩ đến-một vấn đề đang rất nghiêm trọng và đang bị chỉ trích vì phần giá cả các thuốc sốt rét hiện đắt tiêng hơn các thuốc cũ. Tuy nhiên, các thông tin như thế rất ít được biết về cách sử dụng quá mức hay lạm dụng (overuse) thuốc sốt rét như vậy. Họ đã tiến hành nghiên cứu này nhằm khám phá và phát hiện ra những phương cách hay hành vi kê toa thuốc hiện tại ở các bệnh viện theo nhu cầu bệnh nhân. Cuộc phỏng vấn và điều tra trên các bệnh nhân hoặc các người chăm sóc y tế. % bệnh viện quận, nơi mà các điểm kính hiển vi thường xuyên sẵn có được lựa chọn trong vùng có tình trạng lan truyền bệnh thấp (n = 3) và cao (n = 2) ở phía đông bắc của Tanzania. Tất cả sự tra cứu từ bệnh nhân ngoại trú trong suốt quá trình nghiên cứu được tiến hành (n = 669). Các đối tượng này sau đó sẽ được lấy lam máu hoặc điều trị bằng thuốc sốt rét có phỏng vấn (n = 326). Cuối nghiên cứu, các thầy thuốc lâm sàng được phỏng vấn về các ý kiến của họ trong việc cho thuốc sốt rét. Các bệnh nhân không được khảo sát mà đòi hỏi thuốc sốt rét từ các thầy thuốc, nhưng thỉnh thoảng có lấy lam máu. Sự hài lòng của bệnh nhân là giống nhau giữa nhóm có kê đơn thuốc và nhóm không được cho thuốc sốt rét, nhưng nhóm bệnh nhân càng hài lòng hơn khi họ phát biểu rằng họ được kiểm tra hơn là không được kiểm tra. Các thầy thuốc lâm sàng lại hiếm khi nhận thức được nhu cầu cần thuốc của bệnh nhân và xác nhận các nhu cầu đó sẽ không ảnh hưởng lên việc cho thuốc-đúng hay sai?
Nói tóm lại, nhu cầu bệnh nhân không cho thấy là họ cần thuốc một cách quyết liệt, nghĩa là họ không nhất thiết phải cần thầy thuốc kê đơn thuốc một cách thái quá như thế tại các bệnh viện. Ngược lại, liên quan hay các điều tra qua bệnh nhân sẽ cung cấp cơ hội để chúng ta cải thiện về công tác thực hành kê đơn thuốc tốt nếu sự mong đợi của họ theo sau khi được khám kiểm tra lam máu và điều trị theo đúng hướng dẫn có thể là thông điệp tốt đến không chỉ thầy thuốc lâm sàng mà còn cho tất cả chúng ta vì về lâu dài tình trạng này tiếp diễn sẽ dẫn đến tăng áp lực thuốc và kháng thuốc. Không những với các thuốc kinh điển mà còn cả thuốc sốt rét mới mà các nhà khoa học đã bỏ bao công sức và tiền của đầu tư vào một thuốc đến hàng chục năm sau mới cho ra đời.
Cơ chế “động” của bệnh sinh sốt rét đã được giải thích
Theo thông báo từ tạp chí ScienceDaily (Dec. 23, 2009) vừa qua có đăng tải về các cơ ché động (motility Mechanism) của bệnh sinh sốt rét đã được giải thích. Làm thế nào mà một ký sinh trùng đơn bào như sốt rét lại có thể di chuyenr đến tuyến nước bọt của muỗi, rồi sau người bị đốt sẽ đi vào trong hồng cầu người ? Cơ chế phân tử nào hình thành nên nền tảng này rất quan trọng cho quá trình chuyển động của đơn bào sốt rét. Nhóm nghiên cứu đứng đầu là tiến sĩ FriedrichFrischknecht, tại khoa truyền nhiễm thuộc bệnh viện đại học Heidelberg quan sát cho thấy giai đoạn đầu tiên của ký sinh tùng sốt rét được truyền bởi muỗi qua quan sát bằng kính hiển vi.
Họ đã khám phá ra ký sinh trùng tiếp tục lần lượt các pha nhanh và pha kết dính chậm trên bề mặt. Tuwng tác giữa 2 quá trình này có khả năng giúp cho ký sinh trùng di chuyển nhanh theo thời gian, điều này cần thiết cho lan truyền rộng và nhanh của bệnh sốt rét. Nghiên cứu trên có được kết quả là nhòe phối hợp giữa CellNetworks và Cell Host & Microbe.
Can thiệp vào giới tính của muỗi có thể cắt đứt lan truyền sốt rét
Theo tạp chí Reuters đưa tin coh biết nếu can thiệp vào khâu giới tính của muỗi có thể giúp cắt đứt lan truyền của bệnh sốt rét, theo các nhà khoa học Anh cho biết. Một nghiên cứu tập trung vào các loài muỗi chủ yếu góp phần gây bệnh sốt rét ở chau Phi, Anopheles gambiae, chỉ ra rằng các con muỗi này kết cặp và phối một khi chúng còn sống, nếu chúng ta can thiệp quá trình này sẽ đưa đến cắt lan truyền cũng như số lựơng muỗi đáng kể.
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Hoàng Gia Luân Đôn tìm thấy có một cái nút gắn kết giữa con đực và con cái ("mating plug") dùng cho con muỗi đực để cho tinh trùng của chúng ở một nơi thích hợp trong con cái là cần thiết cho muỗi cái thụ tinh trứng trong suột cuộc đời của muỗi cái. Không có nút gắn này, tinh trùng sẽ không chứa vị trí thích hợp và quá trình thụ tinh sẽ không xảy ra và các kết quả bước đầu về nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí PLoS Biology.
Nút đóng vai trò quan trọng trong việc cho phép muỗi cái thành công trong việc lưu giữ lại tinh trùng theo cách của nó và vì thế chức năng sinh sản mới được đảm bảo-tác giả Flaminia Catteruccia cho hay. Nếu loại bỏ hay can thiệp vào nút này khiến cho quá trình giao hợp không hiệu quả. Khám phá này có thể áp dụng để phát triển một phương cách mới trong việc phòng chống quần thể muỗi Anopheles gambiae, giới hạn lan truyền sốt rét.
Khoảng 40% dân số thế giới đang nằm trong nguy cơ của bệnh sốt rét, bệnh có khả năng gây tử vong cao do muỗi truyền bệnh, với hơn 1 triệu người tử vong mỗi năm và trẻ em chiếm khoảng 90% trong số tử vong đó, điều tòi tệ là chúng ảnh hưởng rất nặng nề lên vùng dân sóng ở cận sa mạc Sahara châu Phi và một phần châu Á. Nhóm nghiên cứu ucar Catteruccia phân tích thành phần của cái nút trong muỗi đực và tìm thấy điều thú vị là nú này hình thành khi có một enzyme transglutaminase tương tác với các protein trong tinh dịch của con muỗi đực. Cơ chế tương tác này gây tinh dịch đóng cục lại thành một dạng khối đặc gelatin. Khi các nhà nghiên cứu “knock out” các enzyme trong con muỗi đực trong điều kiện phòng thí nghiệm thì các nút này không thể hình thành, điều đó có nghĩa là sinh sản không xảy ra khi chúng giao phối.
Các nhà khoa học thế giới thử nghiệm vaccine phòng bệnh sốt rét
Thử nghiệm thứ nhất
Khi muỗi đốt, chúng truyền ký sinh trùng sốt rét, giai đoạn đầu của chu kỳ là thoi trùng vào dòng máu. Từ đây, nó di chuyển tới gan nơi ký sinh trùng phát triển đầy đủ. Các nhà nghiên cứu hy vọng làm gián đoạn vòng đời của ký sinh trùng ở giai đoạn thoi trùng. Vaccine RTS,S / AS02 được bào chế từ một loại protein trên bề mặt thoi trùng. Sau đó, protein được kết hợp với 2 chất khác có tác dụng kích thích hệ miễn dịch tấn công. Tiến sĩ Pedro Alonso, trưởng nhóm nghiên cứu tại Mozambique, cho biết cuộc thử nghiệm là một đóng góp quan trọng vào nỗ lực ngăn chặn sốt rét và đưa giới khoa học tiến gần hơn tới mục tiêu tiêm phòng sốt rét cho trẻ em.
Các nhà khoa học đã thử nghiệm vaccine ngừa sốt rét loại RTS,S / AS02 trên 2.000 trẻ em châu Phi, tuổi từ 2 tới 4 tuổi với hy vọng ngăn chặn hàng triệu ca tử vong mỗi năm trên thế giới. Mặc dù đã có một số loại vaccine ứng cử viên đang được phát triển và thử nghiệm song đây là loại vaccine tiên tiến nhất do Công ty dược phẩm GlaxoSmithKline bào chế.
Các cuộc thử nghiệm tại châu Âu, Mỹ, Gambia và Mozambique cho thấy loại vaccine này an toàn và hiệu quả đối với người trưởng thành. Thử nghiệm trên sẽ được tiến hành tại một khu vực sốt rét đang lưu hành nhằm đánh giá độ an toàn của vaccine đối với trẻ em nhỏ. Sau khi tiêm, 2.000 trẻ em sẽ được giám sát trong vòng 18 tháng để xem liệu chúng có mắc bệnh hay không. Các nghiên cứu ngắn hạn trước đây cho thấy hiệu quả của vaccine dường như biến mất sau 2 tháng. Giới khoa học hy vọng tác dụng bảo vệ sẽ kéo dài hơn ở trẻ em mang lại từ vaccine này. Họ ước tính, nếu thử nghiệm lâm sàng ở trẻ em thành công, phải mất 5-8 năm nữa mới có thể đưa loại vaccine mới ra thị trường.
Thử nghiệm thứ hai
Một nhóm khoa học người Mỹ đã phát minh ra một loại vaccine có khả năng tấn công ký sinh trùng sốt rét vào thời điểm dễ bị tổn thương nhất của chúng trong chu kỳ sinh trưởng. Phát minh này có thể sẽ giúp hình thành một phần mới trong chiến lược xóa sổ căn bệnh truyền nhiễm này. Không giống các loại vaccine khác sắp được tung ra thị trường vốn được tạo ra để bảo vệ người có nguy cơ bị nhiễm bệnh, vaccine do nhóm khoa học thuộc Viện nghiên cứu sốt rét John Hopkins tại Baltimore, bang Maryland, Mỹ phát triển nhằm vào mục tiêu phá hủy vòng đời sinh trưởng của ký sinh trùng sốt rét Plasmodium bằng cách ngăn không cho chúng truyền lại từ người bệnh sang trung gian truyền bệnh là muỗi.
Trưởng nhóm nghiên cứu, Nirbhay Kumar khẳng định mặc dù vaccine của nhóm bào chế không trực tiếp giúp một người có nguy cơ bị lây nhiễm tránh khỏi khả năng bị nhiễm bệnh nhưng nó mang lại lợi ích nói chung cho cộng đồng dân cư trong vùng có dịch. Muỗi không thể truyền ký sinh trùng sốt rét sang người lành sau khi đốt người bệnh. Để tạo ra vaccine mới, nhóm của Kumar đã sử dụng vi khuẩn biến đổi gen tạo ra các loại protein tương đồng với những protein liên quan đến sự phát triển giới tính của KSTSR. Các nhà khoa học tiêm các protein này vào chuột và khỉ đầu chó để kích thích cơ thể vật thí nghiệm sản sinh ra kháng thể. Khi nhóm cấy thêm giao tử KST Plasmodium vào mẫu máu của những con vật thí nghiệm, kháng thể sẽ bao quanh và vô hiệu hóa các protein. Nếu muỗi hút phải loại máu này, các giao tử KSTSR vẫn chui vào bụng của muỗi nhưng không thể kết hợp và phát triển thành ký sinh trùng trưởng thành.
Một liều vaccine sẽ giúp giảm tới 93% khả năng lây lan của dịch bệnh sốt rét. Tỉ lệ này tăng lên 98% sau liều vaccine nhắc lại. Nếu kết hợp sử dụng với vaccine RTS,S/AS02A do hãng dược GlaxoSmithKline sản xuất với mục đích ngăn sự lây lan từ muỗi sang người, khả năng loại trừ căn bệnh truyền nhiễm này là rất lớn. Nhóm nghiên cứu hi vọng sẽ thử nghiệm vaccine mới trên người lần đầu tiên vào năm 2012. Bào chế vaccine ngừa bệnh sốt rét đang là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược khống chế căn bệnh này. Tháng 5 vừa qua, giới nghiên cứu đã nhận thấy một số chủng ký sinh trùng Plasmodium ở Cambodia đã trở nên kháng Artemisinin, thuốc chống sốt rét tốt nhất hiện nay và nhiều loài muỗi trung gian truyền bệnh cũng kháng với thuốc diệt muỗi.
Thử nghiệm thứ ba
Plasmodium falciparum là một ký sinh trùng đa dạng về kháng nguyên khác nhau đã từng được phát hiện như là những đích tiềm năng để phát triển vaccine sốt rét. Một trong số các kháng nguyên này là chuổi tương tranh của 4 amino acid trong kháng nguyên circumsporozoite nằm ở bề mặt của thoi trùng Plasmodium falciparum, người ta có thể cho rằng quan trọng nhất của bệnh sốt rét người là nền tảng đối với RTS,S vaccine. Vaccine này được nghiên cứu mở rộng liên quan đến những người tự nguyện, kết quả cho thấy hiệu lực bảo vệ khoảng 40% khi vaccine được dùng phối hợp với một trị liệu hổ trợ hiệu lực. Kết cuộc, các nghiên cứu thực địa cho thấy vaccine có thể có một hiệu lực # 30% giảm đi các biểu hiện lâm sàng bệnh và # 40% chống lại các ca mới nhiễm. Đây là vaccine sốt rét ứng cử đầu tiên cho thấy hiệu quả bảo vệ có ý nghĩa trong các nghiên cứu lâm sàng dựa vào phòng thí nghiệm và thực địa.
Đánh giá độ an toàn và hiệu lực của vaccine sốt rét ở trẻ em và trẻ em nhỏ là rất quan trọng vì hầu hết ca tử vong sốt rét là nằm trong độ tuổi này, ở các khu vực mà mật độ truyền bệnh từ vừa đến cao. Abdulla và cộng sự mô tả độ an toàn và thử nghiệm sinh miễn dịch trong đó vaccine sốt rét RTS,S được sử dụng kết hợp với tá chất AS02D, gọi chung là vaccine RTS,S/AS02D, là loại vaccine có thành phần hợp lý, an toàn khi được so sánh với vaccine viêm gan B đối chứng và các nồng đô kháng thể kháng circumsporozoite có thể phát hiện được trên 98% trẻ em tiếp nhận mũi vaccine RTS,S/AS02D. Trong thử nghiệm, RTS,S được dùng cùng với các vaccine khác dành cho trẻ em (vaccine chứa thuốc chủng bạch hầu và uốn ván, vaccine ho gà toàn phần và vaccine liên kết Haemophilus influenzae type b_HIb), theo lịch tiêm của chương trình tiêm chủng mở rộng. Không có sự cản trở với các đáp ứng miễn dịch đối với các vaccine trong chương trình tiêm chủng mở rộng. Kết quả cho thấy, để cung cấp vaccine RTS,S cùng với các vaccine thường qui cho trẻ em có thể khả thi, làm cho việc chuyển giao vaccine này đến các vùng có SRLH dễ dàng và ít tốn kém hơn nhiều. Suốt 6 tháng sau tiêm chủng, tỷ lệ mới mắc sốt rét và biểu hiện lâm sàng của bệnh trong nhóm đã chủng vaccine RTS,S cho thấy đã giảm tương ứng gần 65% và 59%. Có sự tương quan giữa sự giảm nguy cơ nhiễm KSTSR và tăng nồng độ kháng thể đối với circumsporozoite. Tuy nhiên, không có sự kết hợp giữa một sự giảm tỷ lệ mới mắc sốt rét có biểu hiện lâm sàng và sự tăng nồng độ kháng thể chống circumsporozoite.
Một nhóm nghiên cứu thứ 2 do Bejon và cộng sự báo cáo về thử nghiệm vaccine RTS,S kết hợp với tá chất AS01E ở giai đoạn an toàn 2b và hiệu lực ở trẻ em 5-17 tháng tuổi gọi là vaccine RTS,S/AS01E, thì ít gây tác dụng ngoại ý hơn so với vaccine dại dùng làm đối chứng. Nói chung, có một tỷ lệ không hiệu chính về hiệu lực đến 60% chống lại tất cả những cơn sốt rét lâm sàng của P. falciparum, với những nồng độ kháng thể kháng circumsporozoite có thể phát hiện trên 99% trường hợp tiêm vaccine RTS,S này. Song, trong thử nghiệm của Abdulla và cộng sự thực hiện là không có chứng cứ về sự bảo vệ chống lại bệnh biểu hiện lâm sàng tương quan với các nồng độ kháng thể chống circumsporozoite ở trẻ em được chủng vaccine RTS,S/AS01E. Tá chất AS01E được Bejon và cộng sự dùng để tăng đáp ứng miễn dịch đối với kháng nguyên đích của circumsporozoite với hy vọng là cung cấp hiệu lực lớn hơn tá chất AS02D được Abdulla và cộng sự dùng trong các nghiên cứu lâm sàng sớm hơn của vaccine RTS,S.
Một sự so sánh cho biết các nồng độ kháng thể kháng circumsporozoite trung bình trong số trẻ em tiêm vaccine RTS,S/AS01E thì cao gấp 10 lần nồng độ kháng thể trung bình trong số trẻ em nhận vaccine RTS,S/AS02D. Tuy nhiên, mặc dầu tất cả nồng độ kháng thể trung bình là thấp hơn khi kháng nguyên dùng tá chất AS02D, nhưng cả 2 thử nghiệm do Abdulla và cộng sự và thử nghiệm trước đây cho trẻ em ở Mozambique, thì khả năng bảo vệ chống nhiễm sốt rét và bệnh có biểu hiện lâm sàng là tương tự với nồng độ kháng thể trung bình trong thử nghiệm vaccine có tá chất AS01E do Bejon và cộng sự thử nghiệm. Trong các nghiên cứu của Abdulla và Bejon cùng các cộng sự của họ, hiệu lực bảo vệ chống lại biểu hiện lâm sàng của bệnh đã không khác biệt cho dù dùng tá chất nào, AS01E hay là AS02D, nhưng hiệu lực vaccine này hoặc vaccine kia thì lớn hơn tỷ lệ 30% được báo cáo trong một thử nghiệm trước đó. Liệu rằng các nồng độ kháng thể cao hơn hay không đã kết hợp với việc dùng AS01E có thể chuyển sang hiệu lực bảo vệ kéo dài hơn đối với vaccine RTS,S vẫn còn sẽ được biểu hiện.
Mối tương quan giảm tỷ lệ mới mắc bệnh sốt rét với nồng độ kháng thể cao hơn đang thúc đẩy và tiếp cận, trên cơ sở sinh học của nhiễm bệnh đã biết. Các tương quan giữa nồng độ kháng thể và sự bảo vệ chống lại bệnh lại là khó khăn hơn để tương thích trong bối cảnh các hình thái sinh học của sốt rét và đích tác dụng của vaccine này. Ở người có hai giai đạon phát triển của chu kỳ sốt rét: giai đoạn ngoại hồng cầu ở gan, liên quan đến thoa trùng và thể ngủ, và giai đoạn hồng cầu trong máu, liên quan đến tiểu thể hoa cúc. Miễn dịch thụ đắc chống lại một dạng của ký sinh trùng sốt rét đã không vận hành để chống lại dạng KSTSR trong giai đoạn kia. Các thoa trùng (đích tác dụng của vaccine RTS,S) được muỗi truyền qua người khi đốt, nhiễm vào tế bào gan và bắt đầu phát triển KSTSR tại gan. Một thoi trùng tạo ra hàng ngàn các tiểu thể hoa cúc mà chúng xâm nhập hồng cầu để KSTSR bắt đầu giai đoạn nhiễm KSTSR trong máu, đến lúc chúng gây ra bệnh cảnh của sốt rét lâm sàng. Vì vậy, nếu đáp ứng miễn dịch được phát sinh bởi sự mở các vaccine giai đoạn tiền hồng cầu như vaccine RTS,S thất bại trong việc ngăn cản đối với chỉ 1 thoa trùng duy nhất khỏi sự xâm nhập hoặc phát triển trong tế bào gan, rồi một giai đoạn nhiễm hồng cầu máu kế tiếp, và những cơn sốt kịch phát điển hình và có lẽ bệnh sốt rét nặng sẽ có lúc biểu hiện.
Mặc dầu các kết quả của Abdulla và Bejon cùng các cộng sự của họ đang là hứa hẹn, tỷ lệ mới mắc sốt rét trong vùng nghiên cứu là thấp ngay lúc thử nghiệm thực địa. Các đánh giá của các nghiên cứu về hiệu lực vaccine có thể đã là phức tạp do việc dùng màn tẩm thuốc diệt côn trùng và kết hợp việc điều trị bằng dùng artemisinin thông qua chương trình kiểm soát sốt rét tiếp tục tiến bước song hành toàn khu vực cận sa mạc Sahara châu Phi. Các báo cáo mới đây cho thấy rằng, một số khu vực trong đó sốt rét lưu hành địa phương, như ở Gambia thuộc Tây phi và Kenya, Tanzania thuộc đông Phi, có một sự giảm bệnh rất ngoạn mục về gánh nặng của bệnh sốt rét. Tuy nhiên, khi vaccine RTS,S tiến vào các thử nghiệm giai đoạn 3 vào năm 2009, khu vực rộng lớn cả châu Phi vẫn còn sốt rét lây truyền tử mức vừa đến nặng. Sự lây truyền sốt rét thực sự mạnh mẽ hơn, với sự tân công lớn hơn và liên tục hơn của muỗi mang thoa trùng, có thể ảnh hưởng đến hiệu lực của vaccine. Đây là loại vaccine sốt rét đầu tiên đạt đến sự phát triển của giai đoạn này, và nó sẽ là cơ bản để biết là bằng cách nào để hoạt động trong khu vực lây truyền bệnh mạnh hơn. Đến lúc chúng ta có một ý niệm rõ ràng về tác dụng nào sẽ là tốt cho trẻ con châu Phi và đâu đó trên thế giới và vai trò của vaccine trong việc kiểm soát sốt rét. Quả thực chỉ là bắt đầu cho một niềm hy vọng mà thôi.
Một vaccine hỗn hợp có khả năng chống sốt rét được thử nghiệm thành công
Một vaccine hỗn hợp mới, gồm vaccine MVA chống đậu mùa và vaccine DNA chống sốt rét, vừa được thử nghiệm thành công trên cơ thể 63 người tình nguyện, có khả năng làm giảm 70-80% lượng ký sinh trùng sốt rét trong máu. Nhóm nghiên cứu, dẫn đầu là Adrian V.S. Hill của Đại học Oxford và một số trường đại học khác, nhận thấy sự xâm nhập cùng lúc của hai tác nhân gây bệnh (đã được làm yếu) nói trên đã thúc đẩy cơ thể người sản sinh ra một loại kháng thể chống sốt rét rất hiệu quả. Trong lần thử đầu tiên loại hỗn hợp vaccine này trên người, hệ thống miễn dịch của các người tình nguyện đã phản ứng mạnh hơn nhiều so với hiệu quả riêng rẽ của từng loại vaccine.
Hill cho biết phương pháp điều trị mới không tạo ra sự miễn dịch hoàn toàn đối với sốt rét, nhưng góp phần giúp cơ thể chống lại căn bệnh này. Nhóm nghiên cứu hy vọng rằng họ sẽ đạt được những kết quả tốt hơn khi tiến hành thử nghiệm ở châu Phi, nơi sốt rét tấn công khoảng 300 triệu người mỗi năm và đang tỏ ra ngày càng kháng thuốc mạnh hơn.
Vaccine chống virus đậu mùa được sử dụng trong các thử nghiệm nói trên có tên MVA, là một biến thể virus, mà theo các nhà nghiên cứu, an toàn hơn so với loại vaccine chống đậu mùa được sử dụng trong các chương trình tiêm chủng gần đây - loại này đã gây ra một số vấn đề tác dụng ngoại ý. MVA có một khả năng đặc biệt hiếm thấy, đó là thúc đẩy sinh sản một cách có chọn lọc các tế bào T, một loại kháng thể chủ chốt trong cơ chế phòng chống bệnh của cơ thể. Trong khi đó, vaccine DNA sẽ giúp các tế bào T đối phó lại với kháng nguyên TRAP của virus sốt rét. Cùng lúc, biến thể virus đậu mùa MVA cũng có phản ứng chống lại TRAP. Kết quả là các tế bào T của cơ thể người sẽ kháng mạnh đối với các KSTSR, làm chậm quá trình phát tán của chúng từ gan vào máu và làm giảm lượng virus sốt rét ký sinh trong máu. Bên cạnh khả năng thúc đẩy cơ thể sinh kháng thể chống lại sốt rét, vaccine MVA còn bảo vệ cơ thể ở một mức nào đó chống lại bệnh đậu mùa. Tuy nhiên, do các virus đậu mùa tự nhiên đã bị tiêu diệt, nên không thể thu được các bằng chứng cho nghiên cứu này. Hiện nay, MVA cũng đang được sử dụng thử trong các nỗ lực nhằm tìm kiếm cơ chế giúp cơ thể chống lại bệnh AIDS. Thêm vào đó, loại vaccine này có giá thành sản xuất tương đối rẻ, đồng thời lại bền vững hơn và an toàn hơn.
Trung Quốc đã thử nghiệm vaccine sốt rét trên người
Tại Trung Quốc, đa số các nạn nhân của bệnh sốt rét thuộc các tỉnh miền nam là Vân Nam và Hải Nam. Hơn 70 người lớn khoẻ mạnh sẽ tham gia cuộc thử nghiệm lâm sàng đối với vaccine chống sốt rét mang mã số PfCP2.9 do Trung Quốc sản xuất. Cuộc thử nghiệm sẽ kéo dài 8 tháng.Theo cơ quan y tế Trung Quốc, nếu sau thời gian thử nghiệm trên những người tình nguyện tại bệnh viện Changhai ở Thượng Hải, các cuộc thử nghiệm lâm sàng hoàn chỉnh sẽ được thực hiện trên nhiều người lớn và trẻ em ở những vùng có tỷ lệ bệnh sốt rét cao. Chương trình được tổ chức quốc tế PATH và Malaria Vaccine Initiative tài trợ cho công ty dược phẩm Thượng Hải Wanxing Biological Pharmacy Co., Ltdhợp tác cùng các nhà khoa học trường y số 2 của Thượng Hải nghiên cứu chế tạo vaccine trên. Trong đó, chương trình được nhận 2 triệu USD và trợ giúp kỹ thuật, phân tích dữ liệu từ các tổ chức trên. PfCP2.9 là một trong số 20 vaccine chống sốt rét trên thế giới nhận tài trợ của PATH để thực hiện thử nghiệm lâm sàng.
Hội nghị thượng đỉnh bàn về vấn đề sốt rét diễn ra tại Mỹ
Hội nghị thượng đỉnh Liên hiệp quốc về bệnh sốt rét vừa diễn ra tại New Yorkđã thông qua bản kế hoạch hành động toàn cầu với mục đích giảm thiệt hại của bệnh sốt rét và tiến đến loại trừ hoàn toàn bệnh dịch này. Mục tiêu loại trừ một bệnh dịch nào luôn là một nỗ lực lớn và đôi khi là vô vọng. Tuy nhiên, bản kế hoạch lần này khá chi tiết, tham vọng và tất nhiên rất tốn kém. Nguồn ngân sách chi cho bệnh sốt rét đã tăng từ 250 triệu USD (năm 2004) lên đến 1.1 tỷ USD (2008) và đang kêu gọi tăng lên 5 tỷ USD mỗi năm cho đến tận năm 2020. Nguồn kinh phí cho khoa học cơ bản cũng nhờ đó tăng từ 265 triệu USD (2003) lên 422 triệu USD (2007) và kế hoạch tăng gấp đôi (từ 750 - 900 triệu USD đến 2018). Nguồn tài chính cung ứng này cũng đang bị chịu nhiều ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay.
Việc cân bằng giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng luôn là chủ đề tranh cãi. Dự án giải mã bộ gen của Plasmodium falciparum, KSTSR chính gây bệnh sốt rét ác tính và tử vong, đã cung cấp tư liệu quý cho quá trình tìm ra những thuốc và vaccine mới. Giờ đây, 2 bộ gen của ký sinh trùng khác là P. vivax (gây tỷ lệ tử vong thấp hơn so với P. falciparum) và P. knowlesi (chủ yếu gây bệnh ở khỉ, nay đã gây bệnh cho người) sẽ bổ sung những hiểu biết về bộ gen P. falciparum bởi vì hơn một nửa số gene của nó hiện chưa rõ chức năng. Những nghiên cứu cơ bản về khả năng kháng thuốc của KSTSR và khả năng kháng thuốc diệt côn trùng của muỗi luôn cần thiết để đem lại những kiến thức đầy đủ về quá trình nhiễm bệnh và lây truyền tự nhiên của sốt rét. Một trong những khám phá ấn tượng từ bộ gen của P. falciparum là tính đa dạng trong việc biểu hiện gen và bộ gen đã giúp KSTSR lẩn tránh hệ miễn dịch của người. P. falciparum có thể điều khiển mức độ biểu hiện gen của nó trong những trạng thái hoặc điều kiện sinh lý và trao đổi chất khác nhau. Điều này đã làm thay đổi những định hướng nghiên cứu về quá trình phát triển thuốc và vaccine sắp tới.
Những dược phẩm và vaccine cho ốt rét hiện nay đã hiệu quả và an toàn hơn so với những thập niên trước. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần tìm ra những phương cách tiếp cận và phát triển mới. Quỹ tài trợ Bill và Melinda Gates, nhà tài trợ lớn nhất trong nghiên cứu bệnh sốt rét, đã thông báo nguồn tài trợ 168 triệu USD để phát triển vaccine sốt rét thế hệ mới. Tuy nhiên, phần lớn nguồn tài trợ này lại dùng cho các nghiên cứu chuyển giao và y tế. Nhiều nhà khoa học mong muốn các quỹ tài trợ sẽ có thể tập trung hơn cho các nghiên cứu cơ bản. Một bài học khác cũng được rút ra là cần xúc tiến hơn nữa việc trao đổi thông tin giữa các nhóm nghiên cứu để có thể chuyển giao và tập trung hiệu quả các nguồn tài nguyên, tránh việc lãng phí. Cũng cần thiết phải nhấn mạnh sự trưởng thành của cộng đồng nghiên cứu đến từ các nước thứ 3, chính nơi các bệnh dịch hoành hành. Điều này cần phải được thừa nhận rộng rãi và những hợp tác mới phải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng và bình đẳng.
Tổ chức Y tế thế giới nâng cao các khả năng tiếp cận các trang chuyên đề sốt rét
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đang hy vọng sẽ giúp nhiều người nâng cao và cải thiện hơn trong việc tiếp cận các trang tin về chẩn đoán nhanh sốt rét (RDTs_Rapid diagnostic tests). Sử dụng các tiền mặt để cung cấp bởi Quỹ Foundation for Innovative New Diagnostics, AusAID, USAID, các trang tin sẽ được nâng cấp mức độ cao hơn và từ đó dịch vụ tốt hơn với mục đích cung cấp thông tin đến mọi người về căn bệnh gây chết người nguy hiểm này, theo Medical News Today cho biết. RDTs, đôi khi được gọi là que nhúng hay dipstick được dùng khắp thế giới để xét nghiệm chẩn đoán sốt rét và trong năm 2006, theo thống kê đến 30 triệu test đã được sử dụng. Các website cũng đã đưa ra các giải thích về RDTs cũng như công dụng và lợi điểm của chúng khi sử dụng, đặc biệt những nơi không có bao phủ kính hiển vi.