Phát hiện protein có thể giúp ngăn ngừa các trường hợp tử vong do sốt rét. Nghiên cứu nhiều protein trên diện rộng phát hiện ra mối liên hệ giữa tổn thương cơ và sốt rét thể não.Làm giảm khả năng sinh sản của muỗi có thể giúp chống lại bệnh sốt rét.Hệ thống miễn dịch bảo vệ trẻ em khỏi mắc sốt rét như thế nào.Đào tạo về các mối tương tác lẫn nhau làm giảm một nửa việc chẩn đoán quá mức bệnh sốt rét, ngăn ngừa lãng phí về thuốc.
Phát hiện protein có thể giúp ngăn ngừa các trường hợp tử vong do sốt rét
Ngày 23/4/2014. Hàng ngàn trẻ em đang mắc bệnh sốt rét mỗi năm,bệnh sốt rét có thể biểu hiện nhẹ hoặc dẫn đến tử vong, đặc biệt là trẻ em dưới 5 tuổi nhưng không có cách nào để cho các bệnh nhân biết nguy cơ phát triển các thể bệnh nguy hiểm hơn như sốt rét thể não,đôi khi mức độ nghiêm trọng của một trường hợp sốt rét là không rõ ràng cho đến khi quá muộn. Tuy nhiên, nghiên cứu mới có thể cứu sống và giảm bớt đau đớn bằng cách cho phép những người chăm sóc bệnh nhân phân biệt các biến thể gây tử vong của bệnh do ký sinh trùng với những người bị sốt rét nhẹ và do đó biết sớm về việc liệu một bệnh nhân cần được chăm sóc bổ sung hay không.
 |
| Ghi nhận về chỉ dấu protein có thể giúp cứu mạng sống con người bị các thế sốt rét trầm trọng. |
Nghiên cứu mới tạiViện Công nghệ Hoàng gia KTH cung cấp niềm hy vọng cho hàng ngàn trẻ em bị mắc bệnh sốt rét mỗi năm.Yếu tố mang tính chìa khóa đã được tìm thấy ở các protein xuất hiện trong huyết tương của trẻ em có các triệu chứng sốt rét nặng.PeterNilsson, một giáo sư nghiên cứu protein ở KTH cho biết trong một nghiên cứu của hơn1.000 loại protein khác nhau trong các mẫu máu của hơn 700 trẻ em thì có 500 người trong số đó đã bị nhiễm bệnh sốt rét, các nhà nghiên cứu tìm thấy 13 protein cá thể giúp phân biệt bệnh nhân sốt rét không biến chứng với những người có các thể nghiêm trọng hơn của bệnh. Theo Nilsson: "Những protein này là lớn hơn ở trong máu của trẻ em có khả năng phát triển thành sốt rét nặng", việc phát hiện ra các chỉ dấu sinh học có thể cho phép can thiệp sớm với những bệnh nhân có các biến thể gây chết ngườihơn của bệnh ký sinh trùng"vì vậy trẻ có nguy cơ chết sẽ không còn được gửi trả về nhà".
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) sốt rét là một căn bệnh đe dọa tính mạng gây ra một ước tính có khoảng 627.000 trường hợp tử vong trong năm 2012. Các nhà nghiên cứu cho biết thêm, tại Nigeria khoảng một phần ba các ca tử vong ở trẻ em là do Plasmodium falciparum, một trong những chủng ký sinh trùng gây bệnh sốt rét.
Có một số biến thể chính của bệnh sốt rét, trong đó sốt rét thể não là tồi tệ nhất, ông nói: "Kết quả của chúng tôi chỉ ra rằng mô cơ bị phá hủy, đặc biệt là ở những bệnh nhân có sốt rét thể não và điều đó không xảy ra ở những bệnh nhân có biến thể bệnh sốt rét nhẹ hơn. Sự phân hủy cơ này xảy ra trước khi bệnh nhân rơi vào tình trạng hôn mê nghiêm trọng như là một kết quả”. Nilsson cho rằng các chuyên gia sốt rét đã bày tỏ sự phấn khích về những phát hiện này và người ta hy vọng việc phát hiện ra chỉ dấu sinh học sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong do sốt rét: "Cho đến nay, người ta đã không biết đến bệnh nhân nào có thể phát triển một loại bệnh sốt rét nghiêm trọng, có nghĩa là bạn có thể nhanh chóng rơi vào tình trạng hôn mê và chết. Khi lấy mẫu máu của trẻ em bị sốt do sốt rét sau đó người ta có thể thấy một số trong số đó cần được quan tâm và chăm sóc tích cực. Hiện nay một số lượng lớn trẻ em được gửi về nhà trực tiếp, đối với nhiều người đó là tốt, nhưng rõ ràng không phải cho tất cả bởi vì nhiều người sẽ chết".
Các thử nghiệm lâm sàng của những phát hiện có thể bắt đầu sớm bởi vì Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (US Food and Drug Administration) không đòi hỏi sự phê duyệt cho việc phân tích các protein bổ sung từ các mẫu máu. “Nó có thể không lâu trước khi điều này có thể được thử nghiệm trong thực tế với trẻ em bị bệnh sốt rét và điều này cũng sẽ dẫn đến việc mở rộng sự hiểu biết về giá trị của những protein này", ông nói: "Chúng tôi cũng có mối liên hệ rất tốt với các bệnh viện ở Nigeria và chúng tôi đang có kế hoạch mở rộng nghiên cứu bao gồm các mẫu ở các khu vực khác”. Đây là nghiên cứu đầu tiên xem xét vào các protein của con người với số lượng lớn các trường hợp mắc bệnh sốt rét, "Cho đến nay, nghiên cứu chủ yếu là nghiên cứu về các protein của chính ký sinh trùng sốt rét", Nilsson cho hay.
Nghiên cứu nhiều protein trên diện rộng phát hiện ra mối liên hệ giữa tổn thương cơ và sốt rét thể não (Proteomics discovers link between muscle damage and cerebral malaria)
Ngày 17/4/2014. Các biến chứng do sốt rét vẫn là một nguyên nhân chính gây tử vong cho trẻ em ở nhiều nơi trên thế giới. Tại sao một số trẻ em phát triển những biến chứng này trong khi những trẻ em khác không có biến chứng vẫn còn chưa được hiểu. Hiện nay, các nhà khoa học báo cáo kết quả về một cách tiếp cận protein có hệ thốngđối với câu hỏi này.
Một nhóm các nhà khoa học đa ngành và các bác sĩ lâm sàng dưới sự chỉ đạo của Peter Nilsson (SciLifeLab và KTH, Thụy Điển), Mats Wahlgren (Viện Karolinska, Thụy Điển), Delmiro Fernandez -Reyes (Trường Y Brighton & Sussex , Anh) và Olugbemiro Sodeinde (Trường Đại học Y, Đại học Ibadan, Nigeria), báo cáo kết quả về cách tiếp cận có hệ thống của một protein để trả lời các câu hỏi trên tờ PLoS Pathogens. Họ so sánh các protein trong máu của trẻ em không bị nhiễm bệnh với protein trong máu của những trẻ em bị nhiễm bệnh và cũng so sánh các protein trong máu của trẻ em có các hội chứng sốt rét nặng khác nhau với các protein trong máu của các trường hợp không biến chứng. Các nhà nghiên cứu đã phân tích hơn 1000 protein trong hơn 700 trẻ em. Để thực hiện nghiên cứu chặt chẽ hơn, các mẫu được chia thành hai bộ "phát hiện" (discovery) và "xác minh" (verification), và chỉ có các mối liên hệ mà được tìm thấy trong cả hai mới được báo cáo. Có 41 protein có thể phân biệt giữa bệnh nhân sốt rét và trẻ em không bị lây nhiễm từ cùng một cộng đồng, hầu hết những protein này là những thành phần của phản ứng viêm. Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra các protein là đặc hiệu với hai hội chứng sốt rét biến chứng nguy hiểm nhất ở trẻ em, cụ thể làthiếu máu do sốt rét nặng và sốt rét thể não. Đối với cả hai, sự kết hợp của các protein được gọi là "dấu hiệu" (signatures), có thể xác định hội chứng đặc biệt với độ chính xác cao. Đối với sốt rét thể não, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng một nhóm các protein cơ bắp đặc hiệu hiện diện trong máu của trẻ em, cho thấy rằng các tế bào cơ đã bị tổn thương, ít nhất một số tổn thương đó có thể liên quan với tình trạng hôn mê mà nó xảy ra trong sốt rét thể não nhưng cũng xảy ra trong các bệnh khác như viêm màng não.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng nghiên cứu của họ có thể "cung cấp các yếu tố quan trọng hướng đến việc phát hiện ra các cơ chế khác biệt trong phản ứng của con người tới nhiễm bệnh sốt rét giữa hai hội chứng sốt rét nguy hiểm nhất ở trẻ em" và các protein cơ bắp đặc hiệu trong huyết tương có thể là "chỉ số tiềm năng của sốt rét thể não" (potential indicators of cerebral malaria).
Làm giảm khả năng sinh sản của muỗi có thể giúp chống lại bệnh sốt rét (Targeting sperm protection in mosquitoes could help combat malaria)
Ngày 7/4/2014. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra một cách làm giảm khả năng sinh sản của muỗi mang ký sinh trùng sốt rét,có khả năng cung cấp một chiến thuật mới để chống lại căn bệnh này". Sốt rét giết chết hơn 650.000 người mỗi năm và chúng ta cần phải tìm ra cách thức mới để giải quyết nó, một phần là do muỗi tiếp tục phát triển những cách nhằm chống lại những nỗ lực của chúng ta. Chúng tôi quan tâm trong việc cắt giảm số lượng muỗi sốt rét bằng cách làm suy yếu khả năng sinh sản và nghiên cứu mới của chúng tôi cho thấy một cách mà chúng tôi có thể làm điều này", một tác giả nêu ra. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra một cách làm giảm khả năng sinh sản của muỗi mang ký sinh trùng sốt rét, có khả năng cung cấp một chiến thuật mới để chống lại căn bệnh này.
 |
| Muỗi Anopheles gambiae (ảnh:internet) |
Muỗi Anopheles gambiae là vector chính làm lan truyền bệnh sốt rét, ảnh hưởng đến khoảng 200 triệu người mỗi năm. Muỗi cái giao phối một lần trong cuộc đời chúng. Chúng lưu trữ tinh trùng từ lần giao phối duy nhất này trong một cơ quan gọi là túi nhận tinh (spermatheca), từ đó chúng lấy tinh trùng nhiều lần trong suốt cuộc đời của chúng nhằm đưa tinh trùng vào các trứng mà chúng đẻ. Muỗi cái cần tinh trùng luôn khỏe mạnh trong khi các tinh trùng được lưu trữ trong túi nhận tinh vì thế chúng có thẻ tồn tại và phát triển, mỗi khi con cái sử dụng chúng để sinh đẻ. Nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences cho thấy tinh trùng được bảo vệ một phần bởi các hoạt động của một enzyme gọi là HPX1. Khi các nhà nghiên cứu ngăn cản enzyme HPX15 trong muỗi An.gambiae cái trong phòng thí nghiệm thì những con cái được thụ tinh có trứng ít hơn và do đó con cháu ít hơn.
Đây là lần đầu tiên các nhà khoa học phát hiện ra một cơ chế bảo tồn chức năng của tinh trùng trong An.gambiae. Các nhà nghiên cứu từ Đại học Y tế công cộng Harvard, Đại học Perugia và Đại học Hoàng gia London tin rằng sự hiểu biết của họ cuối cùng có thể dẫn đến một vũ khí mới trong cuộc chiến chống bệnh sốt rét. Điều này sẽ có hiệu quả bằng cách vô hiệu hóa HPX15 nhằm làm giảm khả năng sinh sản của muỗi cái và thông qua đó làm giảm số lượng muỗi mang ký sinh trùng sốt rét lưu hành. Tiến sĩ Robert Shaw, một trong những tác giả chính của nghiên cứu từ Bộ môn Khoa học Đời sống tại trường Đại học Hoàng gia London cho biết: "Bệnh sốt rét giết chết hơn 650.000 người mỗi năm và chúng ta cần phải tìm cách thức mới để giải quyết nó, một phần là do muỗi tiếp tục phát triển cách chống lại những nỗ lực của chúng ta. Chúng tôi quan tâm trong việc cắt giảm số lượng muỗi sốt rét bằng cách làm suy yếu khả năng sinh sản và nghiên cứu mới của chúng tôi cho thấy một cách mà chúng tôi có thể làm điều này. Không có viên đạn ma thuật duy nhất nào giải quyết bệnh sốt rét nhưng làm cho muỗi ít thụ tinh có thể cung cấp cho chúng ta một vũ khí có giá trị chống lại căn bệnh này".
Nghiên cứu mới cho thấy rằng HPX15 có thể bảo vệ tinh trùng được lưu trữ chống lại khả năng gây tổn hại các phân tử được gọi là các gốc tự do, mà là đặc biệt phong phú sau khi một muỗi cái thực hiện việc hút máu. Đảm bảo rằng các tinh trùng khỏe mạnh sau khi hút máulà quan trọng đối với khả năng sinh sản của muỗi cái khi muỗi cái tái sinh sản tạo sau mỗi lần hút máu, việc thụ tinh trứng với tinh trùng được phóng thích từ các túi đựng tinh. Ngoài việc phát hiện ra vai trò của enzyme HPX15, các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra nó được kích hoạt như thế nào, cho thấy một mục tiêu khác có thể cho việc cố định enzyme. Muỗi đực chuyển một hormone gọi là 20E cho muỗi cái trong thời gian giao phối và hormone này gây ra các biểu hiện của HPX15 trong muỗi cái. Tác giả nghiên cứu Flaminia Catteruccia, Phó Giáo sư tại Đại học Y tế công cộng Harvard và trường Đại học Perugia, người cũng là một Viện sĩ nghiên cứu danh dự tại trường Đại học Hoàng gia London cho biết: "Chúng tôi đã xử lý để vô hiệu hóa HPX15 ở muỗi trong phòng thí nghiệm nhưng chúng tôi vẫn chưa có một cách để tái tạo điều này trong muỗi hoang dã. Bước tiếp theo của nghiên cứu này là suy nghĩ về cách chúng tôi có thể ngăn chặn sự hoạt hóa của một trong hai enzyme bảo vệ tinh trùng là HPX15 hoặc kính hoạt 20E ở muỗi đực làm cho enzyme đi vào hoạt động. Cũng có thể có con đường khác mà chúng tôi có thể nhắm mục tiêu và đây là điều mà chúng tôi đang quan tâm để điều tra".
Trong phòng thí nghiệm, các nhà nghiên cứu đã tiêm vào các muỗi cái một chất ức chế để làm giảm mức độ HPX15. Thông thường khoảng 3% trứng mà một muỗi cái đẻ không phát triển thành con cái. Khi các nhà nghiên cứu giảm mức độ HPX15 ở muỗi cái trong phòng thí nghiệm, thì có đến 20% trứng của muỗi là vô sinh. Giáo sư Catteruccia cho biết: "Trong phòng thí nghiệm, chúng tôi giảm số lượng con cái tới một phần năm và đó là một mức giảm không lớn, nhưng muỗi trong phòng thí nghiệm phải chịu ít áp lực nặng nề hơn so với những con muỗi trong tự nhiên, vì vậy chúng tôi nghi ngờ rằng loại can thiệp sẽ có tác động lớn hơn đối với khả năng sinh sản của muỗi hoang dã, đó là điều cuối cùng chúng tôi hy vọng điều tra". Tiến sĩ Shaw nói thêm: "Cho đến nay, chúng tôi đã không thể hoàn toàn loại bỏ HPX15. Điều có thể là ngay cả một lượng nhỏ cũng có thể cung cấp sự bảo vệ đầy đủ nhằm ngăn chặn một con muỗi trở thành vô sinh và nếu trong tương lai chúng tôi có thể loại bỏ HPX15 hoàn toàn chúng tôi có thể thấy một ảnh hưởng ấn tượng hơn". Đồng tác giả Eleonora Teodori từ Đại học Perugia kết luận: "Chúng tôi đang tiếp tục nghiên cứu các cơ chế liên quan và chúng tôi đang mong muốn tiếp tục khai thác các tiềm năng nhắm mục tiêu HPX15 trong muỗi như một cách để chống lại bệnh sốt rét".
Hệ thống miễn dịch bảo vệ trẻ em khỏi mắc sốt rét như thế nào (How the immune system protects children from malaria)
Ngày 17/4/2014. Trẻ em sống trong các khu vực của thế giới, nơi bệnh sốt rét phổ biến có thể được trang bị một đáp ứng miễn dịch với nhiễm ký sinh trùng sốt rét có thể giúp cho trẻ tránh những cơn cơn sốt cao và mắc sốt rét lặp lại và một phần kiểm soát sự phát triển của ký sinh trùng sốt rét trong máu. Những phát hiện này có thể giúp các nhà nghiên cứu phát triển các can thiệp trong tương lai nhằm ngăn chặn hoặc giảm thiểu bệnh tật gây ra bởi ký sinh trùng sốt rét.
Theo một nghiên cứu công bố trên tạp chí PLoS Pathogens, trẻ em sống trong các khu vực của thế giới, nơi bệnh sốt rét phổ biến có thể được trang bị một đáp ứng miễn dịch với nhiễm ký sinh trùng sốt rét có thể giúp cho trẻ tránh những cơn sốt cao và mắc sốt rét lặp lại và một phần kiểm soát tăng trưởng ký sinh trùng sốt rét trong máu. Những phát hiện này có thể giúp các nhà nghiên cứu phát triển các can thiệp trong tương lai nhằm ngăn chặn hoặc giảm thiểu bệnh tật gây ra bởi ký sinh trùng sốt rét. Mỗi năm, khoảng 200 triệu ca sốt rét xảy ra trên toàn thế giới, dẫn đến khoảng 627.000 trường hợp tử vong (chủ yếu là trẻ em dưới 5 tuổi sống ở vùng cận Saharan châu Phi). Theo WHO trong năm 2013 có 97 quốc gia có sự lan truyền sốt rét tiếp diễn. Không giống như các cá nhân mới bị phơi nhiễm với bệnh sốt rét, những người sống ở các vùng lưu hành sốt rét thường không trải qua cơn sốt do sốt rét gây ra và không được điều trị để kiểm soát số lượng ký sinh trùng trong máu.
 |
| Ảnh chụp kính hiển vi điện tử quét màu cho thấy một tế bào hồng cầu bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét màu xanh lam, những tế bào không bị nhiễm bệnh (bên trái) với một bề mặt màu đỏ trơn tru |
Để hiểu rõ hơn lý do tại sao, các nhà nghiên cứu đã phân tích các tế bào miễn dịch của trẻ em ở Mali-những đứa trẻ bị muỗi bị nhiễm sốt rét đốt hơn 100 lần mỗi năm nhưng chỉ bị sốt rét trung bình có hai lần mỗi năm. Các nhà khoa học thu thập mẫu máu của trẻ em 3 lần: 6 tháng trước khi bắt đầu mùa sốt rét; 7 ngày sau khi mỗi đứa trẻ đã được điều trị cơn sốt rét đầu tiên trong mùa sốt rét, khi hết các triệu chứng sốt rét và sau mùa khô 6 tháng tiếp theo, khi chỉ có ít hoặc không có sự lan truyền sốt rét xảy ra.
Để mô phỏng nhiễm sốt rét ở những thời điểm này, các nhà nghiên cứu phơi nhiễm các tế bào miễn dịch với ký sinh trùng sốt rét trong ống nghiệm. Họ phát hiện ra rằng các tế bào miễn dịch thu được trước khi mùa bệnh sốt rét đáp ứng bằng cách sản xuất một lượng lớn các phân tử gây ra viêm, sốt và các triệu chứng sốt rét khác. Ngược lại, các tế bào được thu thập sau khi cơn sốt rét đầu tiên đáp ứng bằng cách sản xuất các phân tử kiểm soát tình trạng viêm và tiêu diệt ký sinh trùng sốt rét.
Khuynh hướng thứ ba của các tế bào miễn dịch (những người được thực hiện sau khi mùa khô khi không có sự phơi nhiễm với bệnh sốt rét) mất khả năng sản xuất các phân tử kiểm soát tình trạng viêm, làm cho trẻ em dễ bị sốt rét một lần nữa. Theo các tác giả, đáp ứng miễn dịch này dường như phụ thuộc vào việc phơi nhiễm liên tục với ký sinh trùng sốt rét, có thể đã tiến triển để bảo vệ trẻ em tránh tình trạng viêm có khả năng đe dọa tính mạng và sự phát triển ký sinh trùng không được kiểm soát khi đối mặt với tình trạng nhiễm sốt rét lặp lạitrước khi trẻ em có được kháng thể bảo vệ đáng tin cậy chống lại sự khởi phát các triệu chứng sốt rét.
Đào tạo về các mối tương tác lẫn nhau làm giảm một nửa việc chẩn đoán quá mức bệnh sốt rét, ngăn ngừa lãng phí về thuốc (Interactive training halves malaria overdiagnosis, prevents wastage of drugs)
Ngày 24/4/2014. Nghiên cứu mới kết luận rằng Chương trình đào tạo về các mối tương tác lẫn nhau cho các nhân viên y tế (Interactive training programs for health workers) có thể giảm một nửa việc chẩn đoán quá mức bệnh sốt rét và ngăn ngừa sự lãng phí về các thuốc có giá trị trên những bệnh nhân không có bệnh, theo một nghiên cứu mới được công bố vào ngày sốt rét thế giới (World Malaria Day) trong tạp chí The Lancet Global Health). Nghiên cứu cho thấy việc triển khai các test chẩn đoán nhanh sốt rét (rapid diagnostic tests -RDTs) ở các quốc gia lưu hành nên chạy song song với các chương trình đào tạo mới. Nghiên cứu ở châu Phi so sánh việc sử dụng test chẩn đoán nhanh (RDTs) cùng với gói chương trình đào tạo cơ bản hoặc một chương trình đào tạo toàn diện cho các thầy thuốc lâm sàng. Kết quả cho thấy những người thực hiện chương trình đào tạo toàn diện là ít có khả năng sử dụng quá mức các thuốc sốt rét.
Nghiên cứu ở Cameroon, được thực hiện bởi Hiệp hội liệu pháp kết hợp dựa vào Artemisinin (Artemisinin-based Combination Therapy_ACT) có trụ sở tại Đại học Vệ sinh và Y học nhiệt đới London (London School of Hygiene & Tropical Medicine), so sánh việc sử dụng RDTs cùng với gói chương trình đào tạo cơ bản hoặc một chương trình đào tạo toàn diện cho các thầy thuốc lâm sàng. Kết quả cho thấy những người thực hiện chương trình đào tạo toàn diện là ít có khả năng sử dụng quá mức thuốc sốt rét. Chỉ có 31% bệnh nhân trong nhóm này nhận được một loại thuốc sốt rét mà họ không cần , so với 52% ở nhóm thực hiện chương trình đào tạo cơ bản và 84% ở nhóm chứng (control group) đại diện cho việc thực hành theo tiêu chuẩn. Gói đào tạo hiệu quả hơn kéo dài 3 ngày và được thiết kế để thay đổi thực hành kê đơn thuốc. Ngoài các nội dung của gói cơ bản, mà chỉ cung cấp đào tạo về RDTs và chẩn đoán sốt rét và điều trị theo quy ước thì gói toàn diện có các nhóm nhỏ hơn và các cuộc thảo luận dài hơn về các hướng dẫn lâm sàng, các kịch bản thực tế trong cuộc sống và sự giao tiếp hiệu quả với bệnh nhân. Nó cũng có mối quan hệ tương tác nhiều hơn, sử dụng thẻ trò chơi, kịch bản và các bài tập giải quyết các vấn đề tình huống.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đáp ứng với các lời kêu gọi từ các chính phủ để cung cấp bằng chứng nhằm giúp thay đổi hành vi của các thầy thuốc lâm sàng, những người thường xuyên điều trị bệnh nhân dựa vào các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh nhân mà không cần xét nghiệm máu tìm kiếm sự hiện diện của ký sinh trùng sốt rét. Điều này thường dẫn đến bệnh nhân bị sốt được chẩn đoán quá mức là bị bệnh sốt rét và nhận được sự điều trị bệnh sốt rét đắt tiền mà họ không cần. Tác giả chính của nghiên cứu, Tiến sĩ Virginia Wiseman của Trường Đại học Vệ sinh và Y học nhiệt đới London cho biết: "Nếu chúng ta nghiêm túc về việc cải thiện mục tiêu của thuốc sốt rét bằng cách sử dụng RDTs, sau đó cần phải tập trung lớn hơn nhiều về sự thay đổi hành vi. Nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên của loại hình này ở Cameroon, nhấn mạnh rằng nhân viên y tế không chỉ cần được đào tạo để chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét mà điều quan trọng hơn cả là cần sự tự tin để đưa những gì họ đã học vào thực tế và giao tiếp hiệu quả hơn với bệnh nhân về lý do tại sao họ đang được xétnghiệm và sốt không phải luôn luôn gây ra bởi bệnh sốt rét. Kết quả của chúng tôi cho thấy một chương trình đào tạo tốt được thiết kế để biến kiến thức vào thực tế có thể làm giảm đáng kể việc chẩn đoán quá mức mắc bệnh sốt rét ở Cameroon và ngăn chặn sự lãng phí về các thuốc có giá trị".
WHO khuyến cáo rằng các nhân viên y tế xét nghiệm cho bệnh nhân sốt rét trước khi kê đơn điều trị sốt rét nhưng trong nhiều thập kỷ sốt rét được chẩn đoán chỉ dựa trên các triệu chứng. Kính hiển vi là một phương pháp đòi hỏi phải có thiết bị phòng thí nghiệm và đội ngũ nhân viên có trình độ, trong khi các test chẩn đoán nhanh là công cụ thay thế, đơn giản để chẩn đoán bệnh sốt rét một cách chính xác mà có thể giúp nhân viên y tế tại các địa điểm vùng sâu vùng xa kê đơn điều trị đúng. Giáo sư David Schellenberg, Giám đốc Hiệp hội ACT tại trường Đại học Vệ sinh và Y học nhiệt đới London cho biết: "Nghiên cứu này cho thấy test chẩn đoán nhanh có thể phỏng đoán công tác chẩn đoán, có thể cải thiện mục tiêu của điều trị bệnh sốt rét cho những người thực sự cần nó. Chúng tôi nhận ra rằng đây là một nghiên cứu thực hiện trong một địa điểm, tại một quốc gia, nhưng nó giúp chúng ta tối đa hóa giá trị của RDTs trong các bối cảnh khác nhau như khu vực tư nhân hoặc các nước khác. Nó cũng thu hút sự chú ý đến tầm quan trọng về sự hiểu biết nguyên nhân gây sốt không phải do sốt rét. Ví dụ, viêm màng não hoặc viêm phổi là bệnh nhiễm trùng đe dọa mạng sống và yêu cầu chuyển lên tuyến trên và cần sự điều trị bổ sung".
Giáo sư Wilfred Mbacham từ Đại học Yaoundé, người đồng dẫn đầu nghiên cứu ở Cameroon cho biết: "Test chẩn đoán nhanh là những công nghệ mới có thể hỗ trợ rất nhiều cho y tá và bác sĩ trong việc đưa ra các quyết định cứu mạng sống tại thời điểm chăm sóc. Thay vì đào tạo thụ động trong việc sử dụng RDTs, thì việc xây dựng sự tự tin và cung cấp đào tạo về truyền thông là chìa khóa để chấp nhận một xét nghiệm âm tính đối với một bệnh nhân có sốt và sử dụng việc lựa chọn điều trị khác. Chúng tôi đạt được kết quả này thông qua sự tham vấn lặp đi lặp lại với chương trình phòng chống sốt rét quốc gia (National Malaria Control Programme). Các chính phủ cần đầu tư ở mức tối thiểu nhằm xây dựng số lượng lớn nhân viên y tế quan trọng những người kê đơn thuốc đúng, đòi hỏi một sự thay đổi chương trình giảng dạy trong các trường y khoa".