Trong vòng 5 năm trở lại đây, với tình hình biến đổi khí hậu toàn cầu, song cũng chưa đe dọa nghiêm trọng đến toàn cầu với những căn bệnh giun sán đáng báo động, đi kèm theo đó là tình hình kinh tế, thu nhập của mọi người, mọi gia đình và toàn cộng đồng ngày một nâng lên – điều đó đồng nghĩa với tình trạng vệ sinh môi trường và chăm sóc cá nhân sẽ cải thiện đáng kể, nên thực trạng nhiễm và phát bệnh của các bệnh truyền từ động vật sang người, nhất là qua đường tay-miệng giảm đáng kể, cớ sao lại tăng như một số độc giả và bệnh nhân thắc mắc trong thời gian vừa qua. Thực hư thế nào về tình hình nhiễm ấu trùng các bệnh giun đũa chó, mèo, giun lươn, giun đầu gai, ấu trùng sán lớn,…chúng tôi mong muốn giái đáp nhưng băn khoăn lo lắng của mọi người dựa trên các bằng chứng y học. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi chỉ đề cập đến bệnh ấu trùng giun đũa chó, mèo (vì tỷ lệ xét nghiệm bệnh này hiện nay cao nhất, có khi lên đến 70-80% số người đi xét nghiệm và gây xôn xao nhất trong cộng đồng).
1. Tỷ lệ huyết thanh dương tính (ELISA) không phải lúc nào cũng cần đến điều trị thuốc!
Nhiều triệu chứng của bệnh do ký sinh trùng tương tự với một số bệnh khác, khiến cho khó khăn trong việc định hướng, đưa ra chẩn đoán và điều trị thích hợp cho bệnh ký sinh trùng. Một xét nghiệm cho bệnh ký sinh trùng một cách khoa học và chính xác, hay sử dụng xét nghiệm mẫu phân tại các la bô chuyên nghiệp sẽ là cách hiệu quả nhất để chẩn đoán bệnh nhiễm ký sinh trùng. Có không ít 5 lần chúng tôi đã trao đổi và giải đáp thắc mắc với bạn đọc về tỷ lệ dương tính với kháng thể ấu trùng giun đũa chó, mèo này, khi bạn đi xét nghiệm tình cờ và không phải “thường xuyên” có biểu hiện triệu chứng ấu trùng này, chỉ có kết quả XN là dương tính thì không đủ quy kết là bị ấu trùng/ giun đũa chó như bạn tưởng và nhiều thầy thuốc hiện nay đang “vô tình cấp tính”/ hay “cố tình mạn tính” đặt ra vấn đề điều trị bằng thuốc Albendazole thoe liệu trình kéo dài nhiều ngày, tích lũy độc tính và quan trọng hơn là để trục lợi bệnh nhân?
Xét nghiệm ký sinh trùng thông qua xét nghiệm phân có thể đòi hỏi nhiều mẫu xét nghiệm cùng nhau và tiến hành tại các lab chuyên biệt. Các test cao cấp hoặc hiện đại hơn như trong bộ Comprehensive Digestive Stool Analysis with Parasitology được nhiều tác giả đề nghị và sẵn có từ các mẫu phân khi vi khuẩn trong đường tiêu hóa mất cân bằng hoặc có vấn đề về tiêu hóa nghi ngờ. Hầu hết các loại ký sinh trùng thì quá nhỏ để chúng ta nhìn bằng mắt thường, vì thế chỉ có thể nhìn thấy các sợi thức ăn chưa tiêu hóa hết mà thôi. Cách duy nhất để đảm bảo nhìn thấy là xem chúng dưới kính hiển vi, cụ thể nhằm phát hiện trứng và ký sinh trùng. Ký sinh trùng có đặc điểm chuyên biệt riêng, có cơ quan tiêu hóa riêng và trong khi đó thì sợi thức ăn lại không có.
Để hiểu hơn về các ý nghĩa xét nghiệm tại các bệnh viện, cơ sở điều trị, trung tâm điều trị đang lạm dụng cả về xét nghiệm lẫn dùng thuốc, để hiểu thấu hơn về tình trạng ‘bệnh” hay “không bệnh” của mình đang “sở hữu”. Các xét nghiệm phát hiện kháng nguyên dùng để phát hiện cấu trúc protein của ký sinh trùng. Thậm chí, chúng có thể phát hiện sự có mặt của mảnh ký sinh trùng trong mẫu phân, điều này mang lại lợi ích cho phép phát hiện sự có mặt các ký sinh trùng đặc biệt, ngay cả khi không nhìn thấy trứng và ký sinh trùng. Các xét nghiệm phát hiện kháng thể để giúp xác định có hay không một người nào đó phơi nhiễm với ký sinh trùng trong quá khứ (điều này chỉ ra một tình trạng nhiễm trùng mạn tính hoặc nhiễm trùng trước đây, chứ không để phát hiện nhiễm trùng hiện tại). Đôi khi một xét nghiệm sinh thiết tại mô ruột non được thực hiện để xác định bệnh ký sinh trùng cũng có thể.
1. Bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo tại vùng Poznan, Ba Lan từ 1990-2000
Nhóm tác giả Pawłowski ZS, Mizgajska H. Akademia Medyczna im. Karola Marcinkowskiego w Poznaniu tiến hành một nghiên cứu và đăng tải trên tạp chí Przegl Epidemiol. 2002;56(4):559-65 cho biết kết quả của các nghiên cứu đa kỹ năng về bệnh giun đũa chó mèo tại vùng Poznan, Ba Lan vào giai đoạn 1990-2000 với sự phối hợp của trung tâm CDC, Atlanta GA, USA. Tại vùng Poznan, bệnh ấu trùng giun đũa chó trên chó, mèo và cáo là hay gặp nhất. Tình trạng ô nhiễm môi trường với các trứng Toxocara spp. cao hơn tại các sân chơi nhỏ giữa các nhà trong các trung tâm thành phố hơn là trong các hộp đất và tại nông thôn hoặc các vùng vui chơi giiar trí. Tỷ lệ phần trăm của trứng T. cati cao hơn bao giờ hết tìm thấy mà đây là vấn đề chưa có câu trả lời thỏa đáng ở người? Các nghiên cứu dịch tễ học huyết thanh chỉ ra một tỷ lệ dương tính lớn hơn ở các quần thể đô thị cũng như trên các đối tượng người trưởng thành. Phần lớn số ca bệnh giun đũa chó mèo trên người là không có triệu chứng, thậm chí có ổ lan truyền cao trong đất. Chỉ số OD 405 = 1.200 trên test thương mại ELISA được chấp nhận như một ngưỡng giữa bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo thường không có triệu chứng với các ca có triệu chứng. Trong bệnh ấu trùng giun đũa chó có một mối liên quan chặt chẽ tìm thấy với giá trị OD, bạch cầu ái toan và các biểu hiện lâm sàng.
Một phân loại mới bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo lâm sàng được đề nghị, gồm hội chứng ấu trùng di chuyển không hoàn toàn (incomplete larva migrans syndrome) và bệnh ấu trùng giun đũa chó thể thần kinh (neurotoxocariasis) và định nghĩa cập nhật về bệnh ấu trùng giun đũa chóẩn (covert toxocariasis). Người ta tìm thấy rằng sau 5 ngày điều trị bằng albendazole là có hiệu quả tương đương liệu trình 3 tuần với diethylcarbamazine. Cân nhắc đến nguy cơ thể OLM trong khi xâm nhập một liệu trình albendazole là đề nghị trên mỗi ca nhiễm, ngay cả không có triệu chứng.
2. Tỷ lệ huyết thanh dương tính (Seroprevalence) của các kháng thể ấu trùng giun đũa chó trong số các bệnh nhân nghi ngờ bị thể OLM tại Slovenia.
Logar J, Soba B, Kraut A, Stirn-Kranjc B đang công tác tại khoa ký sinh trùng, Viện vi trùng và miễn dịch, khoa y, đại học Ljubljana, Slovenia vừa đăng trên tạp chí Korean J Parasitol. 2004 Sep;42(3):137-40 bài viết này. Bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo ở mắt còn gọi là Ocular toxocariasis gây ra bởi ấu trùng giun tròn Toxocara spp. Mục đích của nghiên cứu này là tìm ra tỷ lệ huyết thanh dương tính của các kháng thể của Toxocara trên các bệnh nhân nghi ngờ bị OLM.
Từ năm 2001-2003, huyết thanh của 239 bệnh nhân có vấn đề về mắt, tuổi từ 3-80 được kiểm tra bằng ELISA và xác định lại bằng Western blot test. Trong số 239 bệnh nhân, có 172 (72%) âm tính và67 (28%) là huyết thanh dương tính Toxocara; 95% CI (22-34%). Tuổi trung bình của bệnh nhân nhiễm dương tính huyết thanh là 37.6 tuổi. Không có sư khác biệt có ý nghĩa thống kê trong số huyết thanh dương tính Toxocara trong số các nhóm tuổi nhỏ (< hoặc = 14 tuổi) và nhóm tuổi lớn hơn (> 14 tuổi), p > 0.05. Một tỷ lệ cao về tỷ lệ huyết thanh dương tính trên các bệnh nhân về mắt nên đưa ra cảnh báo với các nhà nhãn khoa tại Slovenia để đưa bệnh ấu trùng giun đũa chó này vào chẩn đoán phân biệt với các bệnh mắt thường gặp.
3. Tỷ lệ huyết thanh trong bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người (VLM).
Nhóm tác giả El-Shazly AM, Abdel Baset SM, Kamal A, Mohammed KA, Sakrs TI, Hammad SM của khoa ký sinh trùng, đại học y khoa của viện đại học Mansoura, Ai Cập đăng tải trên tạp chí J Egypt Soc Parasitol. 2009 Dec;39(3):731-44.
Tổng số 455 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu. Các bệnh nhân đưa vào được phỏng vấn theo bộ câu hỏi (gồm biểu đồ dân số xã hội và các yếu tố nguy cơ khác) và thông qua khám lâm sàng tiến hành trên các bệnh nhân. Huyết thanh từ các bệnh nhân đem thử xác định kháng thể chống ấu trùng giun đũa chó mèo (anti-Toxocara IgG antibodies) qua xét nghiệm ELISA. Toàn bộ số ca có kháng thể dương tính với giun đũa chó là 7.7%. Điều này cao hơn một cách có ý nghĩa trong số các đối tượng lựa chọn ngẫu nhiên chứng ở 30 người khỏe mạnh. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các bệnh nhân có huyết thanh dương tính và âm tính liên quan với tuổi, giới, trình độ học vấn và thu nhập gia đình hàng tháng của bệnh nhân. Tuy nhiên, dân sống tại các vùng nông thôn, nhà nghèo, chủ các con vật cưng và thường xuyên tiếp xúc với các đất tìm thấy cao hơn có ý nghĩa. Các bệnh nhân xác định có hen phế quản cao hơn gấp hai lần về nguy cơ phát triển bệnh lý ấu trùng giun đũa chó mèo (OR = 2.33; 95% CI, 1.09-4.98) hơn so với các bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng khác (PUO, gan lớn hoặc gan lách lớn, bệnh lý hạch lympho, rối loạn thần kinh, vấn đề về dạ dày ruột và viêm da). Các bệnh nhân có tăng bạch cầu ái toan có nguy cơ cao hơn 149 lần về Toxocara (+) so với nhóm không có tăng bạch cầu ái toan (OR=148.7; 95% CI: 53.5-413.3). Phân tích hồi quy đa biến chỉ ra cho thấy chỉ số bạch cầu ái toan tăng và tiếp xúc với đất là các chỉ số tiên đoán (predictor) đối với bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo. OD của hiệu giá kháng thể chốngToxocara (ELISA) dương tính có ý nghĩa với mức độ tăng bạch cầu ái toan.
4. Điều tra dịch tễ học huyết thanh của nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo tại Thụy Điển.
Nhóm tác giả Ljungström I, van Knapen F đang công tác tại khoa ký sinh trùng, la bô vi khuẩn quốc gia, Stockholm, Thụy Điển cùng nghiên cứu và đăng trên tạp chí Scand J Infect Dis. 1989;21(1):87-93. Tỷ lệ huyết thanh nhiễm toxocara được xác định trên 323 mẫu huyết thanh từ các cá nhân khỏe mạnh lựa chọn thống kê từ các vùng địa lý khác nhau của Thụy Điển. Đáp ứng huyết thanh trên 175 mẫu huyết thanh từ bệnh nhân nghi ngờ nhiễm bệnh bệnh toxocariasis được so sánh với các đặc điểm lâm sàng và tuổi. Huyết thanh được phân tích bằng xét nghiệm ELISA với loại kháng nguyên tiết.
Tỷ lệ huyết thanh ở người trưởng thành trẻ được ước tính là 7%, chỉ ra bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo chưa biểu hiện lâm sàng (subclinical toxocariasis) xảy ra trên người Thụy điển khỏe mạnh. Hình ảnh tỷ lệ không tương phản với các báo cáo từ các quốc gia khác. Các kháng thể biểu hiện trội trong huyết thanh từ những người đàn ông đang sống tại một cộng đồng nông thôn so với các huyết thanh từ các vùng khác được điều tra (p < 0.01). 91% mẫu huyết thanh của bệnh nhân thu nhận từ bệnh nhân cao hơn 5 tuổi. Đặc điểm lâm sàng là rối loạn về mắt (46%), tăng bạch cầu ái toan (32%), phổi, gan, rối loạn thần kinh (14%). Các rối loạn này phân bố đều giữa các nhóm tuổi. Phản ứng huyết thanh dương tính đáng chú ý là 25% trong số các bệnh nhân và đặc điểm lâm sàng khác nhau và nhóm tuổi tương đương giữa các nhóm huyết thanh dương tính. Tuy nhiên, phần trăm số bệnh nhân huyết thanh dương tính có rối loạn mắt tăng lên theo nhóm tuổi tăng, ngược lại đối nghịch với các bệnh nhân có tăng bạch cầu ái toan. Kết quả này chỉ ra rằng biểu hiện lâm sàng của bệnh tồn tại tại Thụy Điển.
5. Nghiên cứu huyết thanh học bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo tại bắc Ấn Độ
Nhóm tác giả Malla N, Aggarwal AK, Mahajan RC tại Viện Nghiên cứu và giáo dục y khoa Chandigarh, Ấn Độ cũng thực hiện nghiên cứu và dăng tải trên Natl Med J India. 2002 May-Jun;15(3):145-7.
Bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo do các ấu trùng ký sinh trùng các cơ quan khác nhau, có thể dẫn đến một số hội chứng lâm sàng nghiêm trọng như VLM và OLM. Việc phát hiện đáp ứng kháng thể với kháng nguyên TES của anti-Toxocara canis trong mẫu huyết thanh là nhạy và đặc hiệu trong chẩn đoán và điều tra dịch tễ học. Để đánh giá vấn đề này tại phía bắc Ấn Độ, chúng tôi đã thử đánh giá đáp ứng kháng thể với kháng nguyên TES bằng phản ứng ELISA trên các đối tượng đang sống trong các vùng nông thôn gần Chandigarh và các bệnh nhân nhập viện Nehru, Chandigarh và những ca nghi ngờ bị ấu trùng giun đũa chó mèo. Các mẫu huyết thanh thu thập từ 94 đối tượng ngẫu nhiên, sống tại làng Kheri, quận Ambala, Haryana; 30 bệnh nhân bị nghi ngờ về mặt lâm sàng có bệnh toxocariasis nhập bệnh viện Nehru, tại Chandigarh; 25 bệnh nhân chứng và 15 cá nhân khỏe mạnh. Đây là các đối tượng đã được xét nghiệm ELISA phát hiện kháng thể đối với kháng nguyên TES theo hướng dẫn của kít của LMD Laboratories Inc. Ca. USA. Tất cả mẫu đều thử đôi và mẫu dương tính được kiểm tra bằng một kít khác (Melotec Biotechnology, Spain).
Kết quả cho thấy trong số 94 đối tượng sống tại làng Kheri và 30 bệnh nhân có lâm sàng nghi ngờ ấu trùng giun đũa chó, thì có lần lượt 6 ca (6.4%) và 7 ca (23.3%) huyết thanh dương tính với kháng thể anti-Toxocara. Một bệnh sử có ăn đất và / hoặc tiếp xúc với các con vật cưng không thể đến từ các bệnh nhân, do đó mô hình chính xác lây truyền không thể chắc chắn. tuy nhiên, 3 (3.2%), 2 (2.13%) và 1 (1.06%) đối tượng có huyết thanh dương tính tại làng Kheri là trong nhóm tuổi 1-10, 11-20 và 21-30, trong khi 4 (13.33%) và 3 (10%) bệnh nhân huyết thanh dương tính nhập viện vào bệnh viện Nehru, Chandigarh là lần lượt trong nhóm tuổi 1-10 và 21-30 tuổi. Không có bệnh nhân chứng nào/ cá nhân khỏe mạnh là dương tính.
Đáp ứng kháng thể dương tính với kháng nguyên tiết TES trong 6.4% cá nhân đang sống trong một vùng nông thôn gần Chandigarh và trong 23.3% của bệnh nhân nghi ngờ lâm sàng có bệnh chỉ ra rằng bệnh ấu trùng giun đũa chó có thể lưu hành trong một số vùng của bắc Ấn Độ. Một nghiên cứu dịch tễ học chi tiết cần thiết tiến hành để xác định vấn đề này.
6. Phát hiện kháng nguyên và kháng thể lưu hành trên bệnh nhi có ấu trùng giun đũa chó, mèo tại Chengdu, Trung Quốc.
Nhóm tác giả Luo ZJ, Wang GX, Yang CI, Luo CH, Cheng SW, Liao L đang công tác tại khoa ký sinh trùng, đại học y khoa tây Trung Quốc, Chengdu Sichuan, Trung Quốc đăng tải J Parasitol. 1999 Apr;85(2):252-6. Để xác định tỷ lệ huyết thanh của nhiễm trùng Toxocara spp. trên các trẻ em tại Chengdu, chúng tôi thực hiện phản ứng ELISA và sandwich ELISA (S-ELISA) với các kháng nguyên tiết TES phân lập từ ấu trùng giai đoạn 2 của Toxocara canis (TES-Ag ELISA). Tỷ lệ huyết thanh (seroprevalence) của các kháng thể T. canis trên trẻ em từ các vùng nông thôn,quận đô thị đã nhiễm trùng giun đũa Ascaris lumbricoides gần đây lần lượt là 17.7% (59/333), 2.1% (4/186), và 2.6% (1/38). Trong số 63 bệnh nhân nghi ngờ có triệu chứng của T. canis, 31 ca có kháng thể dương tính. Thử nghiệm ức chế chỉ ra khả năng ức chế rõ ràng của kháng nguyên TES-Ag đối với kháng thể chống lại ấu trùng T. canis. Kết quả S-ELISA chỉ ra rằng các kháng nguyên của ấu trùng T. canis đang lưu hành có thể được phát hiện trong phần huyết thanh có kháng thể dương tính và và tỷ lệ phát hiện kháng nguyên lưu hành trong máu có thể cải thiện bằng cách xử trí polyethylene glycol-acid.
Đây là nghiên cứu về dịch tễ học đầu tiên để xác định sự tồn tại của nhiễm trùng T. canis và ấu trùng Toxocara di chuyển tại Chengdu thông qua phối hợp TES-Ag ELISA và S-ELISA.
7. Điều tra dịch tễ học huyết thanh đối với nhiễm Toxocara canis tại phía Tây bắc Thỗ Nhĩ Kỳ
Nhóm tác giả gồm Doğan N, Dinleyici EC, Bor O, Töz SO, Ozbel Y. Osmangazi thuộc đại học Tip Fakültesi, Cocuk Sağliği ve Hastaliklari Anabilim Dali, Izmir, Thỗ Nhĩ Kỳ đã nghiên cứu và đăng tải trên tạp chí Turkiye Parazitol Derg. 2007;31(4):288-91. trong nghiên cứu này, một xét nghiệm ELISA với kháng nguyên Toxocara canis được sử dụng để xác định điều tra dịch tễ học huyết thanh về nhiễm Toxocara canis tại các vùng nông thôn và thành thị ở tây bắc Thỗ Nhĩ Kỳ. Tỷ lệ huyết thanh học về Toxocara được phát hiện trong số 430 trẻ em lựa chọn ngẫu nhiên tại các vùng nông thôn và 141 trẻ em vùng thành thị.
Tổng số tỷ lệ kháng thể chống Toxocara tìm thấy là 12.95% trên cả hai nhóm. Trong khi đó, nồng độ kháng thể chống Toxocara có ý nghĩa được phát hiện trên 73/430 (16.97%) trẻ em từ nông thôn trong khi đó chỉ có 1 (0.71%) trẻ dương tính với kháng thể từ thành thị (p < 0.001). Tại các vùng nông thôn, các kháng thể anti-Toxocara cao hơn có nghĩa trên các trẻ em có một con chó ở nhà hơn là trẻ không có con chó nào (53 vs. 20 trẻ; p < 0.01). Tỷ lệ huyết thanh dương tính của kháng thể tương tự nhau giữa các nhóm và giới tính (p > 0.05). Dựa vào kết quả này, tổng tỷ lệ huyết thanh này thấp hơn các quốc gia khác, nhóm nghiên cứu đề nghị này các chương trình y tế công cộng cần đặc biệt chú ý đến trẻ em, có thể bảo vệ hiệu quả khỏi nhiễm Toxocara.
8. Khía cạnh dịch tễ bệnh truyền động vật truyền sang người của nhiễm giun đũa ở chó và mèo
Các nhà nghiên cứu Lee AC, Schantz PM, Kazacos KR, Montgomery SP, Bowman DD ddang công tác tại khoa vi trùng và miễn dịch của đại học Thú y, viện Cornell, Ithaca, NY 14853, Mỹ đăng tải trên tạp chí Trends Parasitol. 2010 Apr;26(4):155-61. Epub 2010 Feb 19. kết quả cho biết lần lượt nhiễm trùng ấu trùng Toxocaracanis và Toxocara cati trên chó và mèo, có thể gây bệnh có ý nghĩa ở người. Tỷ lệ huyết thanh của các kháng thể chống Toxocara thay đổi theo các yếu tố như vị trí địa lý, tình trạng kinh tế xã hội và thói quen ăn uống. Các yếu tố nguy cơ nhiễm gồm thói quen ăn đất và trình độ học vấn thấp. Toxocara canis được xác định là nguyên nhân gây bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người, nhưng Toxocara cati không nên xem nhẹ, nhiễm trùng tiềm tàng Baylisascaris procyonis, loại giun đũa trên gấu trúc đang gia tăng trên chó. Những chủ nuôi vật cưng cần giáo dục một cách hợp lý về các nguy cơ bệnh động vật truyền sang người và các nhà thú y nên sàng lọc thường xuyên ký sinh trùng và điều trị tất cả các vật cưng. Thiết lập về chương trình giám sát quốc gia để xác định tỷ lệ và tác nhân đặc hiệu trên các bệnh nhân nhiễm ấu trùng nên được hỗ trợ và có nhưng chiến lược can thiệp đúng nhóm đích.
9. Nhiễm ấu trùng Toxocara canis tiềm tàng trên những con chó không nhiễm giun bị phơi nhiễm trước đây sau khi nhiễm một số lượng trứng có phôi
Fahrion AS, Staebler S, Deplazes P. Institute of Parasitology, Vetsuisse Faculty, University of Zurich, Winterthurerstrasse 266a, CH-8057 Zurich, Switzerland. Vet Parasitol. 2008 Mar 25;152(1-2):108-15. Epub 2007 Dec 4.
Hậu quả của nhiễm Toxocara canis trên các con chó lệ thuộc vào con đường di chuyển của ấu trùng (toàn thân hay khí quản), trong đó quan tâm đến liên quan đến tuổi của chó và tình trạng miễn dịch của nó. Tuy nhiên, các nghiên cứu thực địa chứng minh tỷ lệ cao nhiễm tiềm tàng của T. canis trên các động vật trưởng thành hay chó trưởng thành. Sự phòng chống nhiễm tiềm tàng với liều thấp của các trứng đóng phôi được điều tra trên 18 chó săn (beagles) trong một nghiên cứu kéo dài 7 tháng cho đến tháng 16. Các động vật được chia thành 3 nhóm, mỗi nhóm gồm các con chó nhiễm bệnh theo chiều dọc (với thời gian nhiễm tiềm tàng ngắn vì các con chó con trước khi điều trị thuốc giun) và 3 con chó không có nhiễm giun.
Vào thời điểm ngày 10 và ngày 40, các con vật nhóm 1 và 3 được cho uống 100 trứng T. canis có phôi. Trong mỗi trường hợp, nhóm 1 đươc điều trị 10 ngày sau nhiễm bằng Milbemax, trong khi đó các con chó nhóm 3 không điều trị. Nhóm chứng 2 không cho nhiễm thực nghiệm nhưng vẫn điều trị như nhóm 1. sau hai tuần kể từ khi cho ăn trứng, có một sự gia tăng đáng kể nồng độ kháng thể đặc hiệu trên ELISA và đếm bạch cầu ái toan tăng chỉ ra xâm nhập ấu trùng trên tất cả các con chó nhiễm. 42-56 ngày sau khi nhiễm đầu tiên, nhiễm tiềm tàng được phát hiện qua xét nghiệm phân trên các con nhóm 3, nhưng khộng có con nào không nhiễm trong nhóm đó (group 2) hoặc trên các chó nhiễm và có được điều trị (group 1).
Sau 3 tháng giám sát, tất cả con vật của 3 nhóm được điều trị bằng piperazine citrate để loại bỏ nhiễm trùng đường ruột và tất cả được chỉ định cho 100 trứng có phôi. Tiếp đó, nhiễm tiềm tàng phát triển trên các con vật của các nhóm: trong một ca nhiễm và được điều trị nhóm 1, trong 5 ca nhóm chứng không nhiễm nhóm 2 và 4 ca trong nhóm nhiễm tiềm tàng trước đó (group 3). Tính nhạy với các nhiễm trùng tiềm tàng không thay đổi đáng kể trên các con chó không nhiễm giun T. canis so với các con chó đã nhiễm tiềm tàng trước đó (nhiễm do mắc phải hay gây nhiễm thực nghiệm). Tuy nhiên, các con chó trong nhóm 1 điều trị bằng Milbemax sau khi cho uống trứng lặp lại đã tăng kháng lại vấn đề nhiễm tiềm tàng so với nhóm chứng (group 2).
Trong suốt một thời gian theo dõi từ 40-56 ngày và không khác nhau giữa 3 nhóm. Thậm chí tại các vùng đô thị, việc đối mặt áp lực nhiễm cao với trứng Toxocara eggs duy trì bởi quần thể cáo và chó cao, tất cả các nhóm tuổi trong nguy cơ phát triển nhiễm trùng nhiễm trùng tiềm tàng T. canis.
10. Tỷ lệ kháng thể anti-T. canis trên những con chó đi lạc tại thành phố Mexico
Một nhóm nghiên cứu gồm Martínez-Barbabosa I, Quiroz MG, González LA, Cárdenas EM, Edubiel AA, Juárez JL, Gaona E đang làm việc tại khoa Atención a la Salud, vùng Ciencias Básicas Edif, H-102, Universidad Autónoma Metropolitana-Xochimilco, Delegación Coyoacan, México đăng tải kết quả nghiên cứu trên Vet Parasitol. 2008 May 31;153(3-4):270-6. Epub 2008 Feb 16.
Toxocara canis là một trong những loại giun sán hay gặp nhất trên chó. Trên người, đây là một nguyên nhân của Visceral Larva Migrans (VLM), một bệnh lý động vật hiếm gặp nghiên cứu tại Mexico. Mục đích nghiên cứu này là xét nghiệm, bằng các xét nghiệm indirect haemaglutination test (IHAT), tỷ lệ kháng thể chống T. canis trong huyết thanh của cấc con chó đi lạc tại Mexico City. Tổng số 141 mẫu huyết thanh của chó lạc từ 3 quận khác nhau của thành phố đưa vào phân tích: Iztacalco (49), Iztapalapa (49) và Coyoacan (43). Tại mỗi điểm, 3 nhóm nghiên cứu đã được hình thành. Group I với 35 con chó (< 1 năm tuổi), Group II với 91 con chó (tuổi 1 < hoặc = n < 6) và Group III với 15 con (tuổi ≥ 6 tuổi). Một chiết xuất thô từ các con giun đũa chó T. canis sử dụng làm kháng nguyên. Cuối cùng, một phiên bản cải tiến của xét nghiệm ngưng kết Boyden's IHAtiến hành.
Kết quả trong số 141 mẫu huyết thanh, có đến 94 mẫu (40 nam và 54 nữ) cho kết quả dương tính (hiệu giá pha loãng 1:32 đến 1:4096) với tỷ lệ nhiễm toàn cầu lên đến 66.7%. Tần suất chó nhiễm tại Iztacalco là 61.2%, 51% tại Iztapalapa và 90.7% tại Coyoacan. Hoạt tính huyết thanh lớn nhất được phát hiện trong nhóm II (tuổi 1 - 6) với 61 ca dương tính và tổng số tần suất là 43.3%.
Tỷ lệ huyết thanh của kháng thể anti-T. canis tìm thấy trên các con chó trong quần thể nghiên cứu là một chỉ điểm của tiếp xúc giữa động vật và ký sinh trùng. Đây là một kết quả nhiễm cao với đất tại Mexico City với các trứng của ký sinh trùng. Một nghịch lý, tại Coyoacan có vùng xanh cỏ nhiều hơn cũng bị ô nhiễm trong các khu như tự trị. Phân tích thống kê xác định điều này. Các con chó tìm đến các vùng cỏ xanh để thải phân. Ở đó tồn tại một nguy cơ nghiêm trọng đối với quần thể nhiễm các ấu trùng di chuyển VLM.
11. Nghiên cứu dịch tễ học huyết thanh (Seroepidemiologic) bệnh ấu trùng giun đũa chó, mèo
Nhóm nghiên cứu Kimmig P, Naser K, Frank W. Medizinischen Landesuntersuchungsamt Stuttgart. Zentralbl Hyg Umweltmed. 1991 Apr;191(4):406-22. Người dân phía nam của Đức cũng như ở các bệnh nhân nhà thương tâm thần không phải châu Âu đưa vào xét nghiệm tìm nhiễm trùng ấu trùng Toxocara canis; trong trường hợp một phương pháp tham khảo cùng điểm cắt (cut off) xác định thống kê. Tại vùng Stuttgart, tỷ lệ huyết thanh trung bình trên những người cho máu khỏe mạnh là 4.8%; trẻ em tuổi từ 1-7 có tỷ lệ 2.1%.
Tuy nhiên, phần trăm mẫu huyết thanh của trẻ em nhiễm thấp không thể ảnh hưởng đến nguy cơ nhiễm thấp, nhưng có thể dẫn đến một sự thật các trẻ em sống trong các vùng thành phố. Người không phải châu Âu và dân Đông Âu cho thấy có một tỷ lệ nhiễm huyết thanh cao hơn có ý nghĩa (13.7% hoặc 17.7%) so với nhóm người cho máu từ Nam Đức. Điều này chỉ ra một nguy cơ nhiễm cao hơn ở tại các quốc gia này. Khả năng xác định các yếu tố nguy cơ khác nhau đối với nhiễm Toxocara canis với một vài xét nghiệm trên nhưng người đến từ nam Đức.
So với nhóm có nguy cơ thấp hơn (seroprevalence 1.9%), nhóm thử nghiệm với các yếu tố nguy cơ chỉ ra có sự gia tăng tỷ lệ về tỷ lệ huyết thanh dương tính cao có ý nghĩa:chủ nuối chó 5.6%, chủ các gia súc 9.4%, chủ có mèo 10.9%, nông dân 22.6%. Sự có mặt của một vài yếu tố nguy cơ bổ sung vào tỷ lệ huyết thanh có thể tìm thấy: Trong nhóm xét nghiệm với một yeeys tố nguy cơ cho seroprevalence (9.2%) thấp hơn so với nhóm thử bằng hai test (10.8%) và 3 yếu tố nguy cơ (18.6%). Xem xét về tỷ lệ mắc cao tìm thấy trong nghiên cứu này và các biến chứng nguy hiểm có thể của bệnh ấu trùng giun đũa chó Toxocara canis, biện pháp vệ sinh và y học cần phải đưa ra lời khuyên hợp lý.
12. Các khía cạnh dịch tễ học bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo trên chó và mèo
Overgaauw PA đang làm tại Virbac Nederland B.V., Barneveld, The Netherlands. Crit Rev Microbiol. 1997;23(3):233-51.
Toxocara canis và Toxocara cati là các giun tròn hay gặp trên chó và mèo. Trong bài tổng quan về chu kỳ loài ký sinh trùng này đã được mô tả, bao gồm các con đường lan truyền khác nhau, như lan truyền qua nhau thai, nhiễm trùng qua thời gian đang cho con bú, nhiễm thông qua các vật chủ paratenic. Sự di chuyển toàn thân và khí quản trong cơ thể sau khi nhiễm trứng Toxocara hoặc ấu trùng được bàn luận với các tham khảo đặc biệt đến tuổi và sự khác biệt giữa chó và mèo. Triệu chứng lâm sàng và bệnh học trên các con chó con và chó trưởng thành cũng được xem xét. Chẩn đoán các ca bệnh nhiễm trùng tiềm tàng có thể ghi nhận thông qua xét nghiệm phân, điều trị có sử dụng thuốc sổ giun. Phòng chống bệnh đạt được nhờ vào phòng bệnh nhiễm trong môi trường, chiến lược thuốc sổ giun và giáo dục sức khỏe. Chú ý đặc biệt cho thuốc có hiệu lực chống lại các giun trưởng thành và giai đoạn ấu trùng.
Người ta kết luận rằng giáo dục và chỉ ra chu kỳ lây truyền bệnh, vệ sinh và điều trị bằng thuốc có định kỳ đặt ra vì nguy cơ bệnh truyền từ động vật sang người của Toxocara spp. Số giun trên các chó mang thai và mèo mang thai không được khuyến cáo.
13. Nhiễm bệnh giun đũa và ấu trùng giun đũa chó mèo ở người tại Srinagar, Kashmir, India.
Nhóm nghiên cứu gồm các tác giả Ahmad B, Bhatti G, Thokar MA, Malla N đang công tác tại khoa ký sinh trùng, viện nghiên cứu và giáo dục y khoa Chandigarh tiến hành và đăng tải trên tạp chí Indian J Pathol Microbiol. 2002 Jul;45(3):315-8.
Bệnh giun đũa chó mèo gây ra bởi Toxocara canis hay gặp trên cả các quốc gia phát triển và không phát triển và dẫn đến hội chứng ấu trùng di chuyển nội tạng (VLM) với tỷ lệ mắc và tử vong cao. Bệnh ascariasis gây ra bởi giun đũa Ascaris lumbricoides, cũng có phân bố toàn cầu và tại Ấn Độ, tỷ lệ mắc cao đã được báo cáo tại Kashmir (J & K State).
Cả các loài giun tròn, Toxocara canis và A. lumbricoides đòi hỏi điều kiện môi trường và sinh học tương tự như nhau để trứng phát triển trong môi trường đất. Do đó, nghiên cứu này cố gắng phát hiện các kháng thể chống lại kháng nguyên TES của T. Canis thông qua xét nghiệm ELISA trên các bệnh nhân tham gia vào bệnh viện Sher-I-Kashmir, Soura, Srinagar, Kashmir để đánh giá mức độ bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người tại Kashmir, vùng lưu hành bệnh cao. Điều thú vị, có 38 (82.60%) trong số 46 bệnh nhân nhiễm Ascaris Iumbricoides có đáp ứng kháng thể dương tính với kháng nguyên T. Canis trong khi đó không có ca nào trong số 15 người khỏe mạnh từ cùng vùng lưu hành, 25 ca số từ vùng lưu hành thấp Chandigarh và 15 ca nhiễm các loài giun sán khác (giun móc, bệnh nang sán, cysticercosis) chỉ ra đáp ứng dương tính có thể phát hiện được.
Phần lớn các bệnh nhân duowng tính với bệnh giun đũa ascariasis được nghiên cứu trên nhóm tuổi 21-40. Tuy nhiên, 1 bệnh nhân giun đũa nghiên cứu trong nhóm tuổi 1-10cũng cho đáp ứng kháng thể dương tính vói kháng nguyên T. Canis. Nghiên cứu này là báo cáo đầu tiên của bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo tại Kashmir, India – một vùng lưu hành với bệnh giun đũa và nhấn mạnh nhu cầu nghiên cứu dịch tễ học một cách chi tiết để đưa ra biện pháp phòng bệnh hữu hiệu.
14. Điều tra về dịch tễ học huyết thanh đối với bệnh giun đũa chó mèo trên các cư dân nhìn bề ngoài có vẻ khỏe mạnh đang sống tại Gangwon-do, Hàn Quốc
Park HY, Lee SU, Huh S, Kong Y, Magnaval JF ở khoa Ký sinh trùng của đại học y Hallym, Chunchon 200-702, Hàn Quốc đăng kết quả nghiên cứu của họ trên Korean J Parasitol. 2002 Sep;40(3):113-7.
Họ cho biết họ vừa điều tra về tỷ lệ huyết thanh của bệnh giun đũa chó trên những cá nhân khỏe mạnh tại Hàn Quốc vào năm 1999. Tổng số 314 mẫu huyết thanh từ các người dân bình thường tại Whachon-gun, Gangwondo, Hàn Quốc được xét nghiệm để phát hiện lượng kháng thể chống lại kháng nguyên tiết ES của giai đoạn L2 ấu trùng Toxocara (TES). Sự có mặt của phản ứng chéo với các loại giun sán khác như ấu trùng sán dây lợn cysticercosis, sán lá phổi paragonimiasis, sán nhái sparganosis hay bệnh sán lá gan nhỏ clonorchiasis cũng được kiểm tra bởi IgG ELISA đặc hiệu. Phản ứng huyết thanh biểu hiện dương tính chống lại kháng nguyên TES cũng được thử bởi phản ứng IgG immunoblot và bởi IgE ELISA. Trong số 314 đối tượng, 16 người tìm thấy dương tính bởi xét nghiệm TES IgG ELISA và immunoblot, trong số 12 người đó cũng dương tính bởi TES IgE ELISA. Trong số 16 mẫu huyết thanh dương tính, có 2 mẫu huyết thanh cho phản ứng với kháng nguyên sán lá phổi và sán nhái. Các kết quả này ám chỉ đến phản ứng chéo đang bị bỏ qua giữa bệnh do ấu trùng giun đũa chó, mèo và các bệnh do ấu trùng giun sán khác. Tỷ lệ huyết thanh dương tính với bệnh do ấu trùng giun đũa chó mèo trong các người lớn ở nông thôn Hàn Quốc khoảng 5%.
Qua 14 nghiên cưu, có lẽ chưa đủ và chưa thể bao phủ hết, không kể các nghiên cứu điều tra tại Việt Nam chưa công bố hết ở trên, chúng ta thấy rằng tỷ lệ nhiễm huyết thanh dương tính trên các cá nhân có biểu hiện lâm sàng hay trên những người khỏe mạnh cũng không đến mức cao như ở Việt Nam hiện nay. Trước khi đặt vấn đề điều trị, các nhà điều trị trong 14 nghiên cứu đều tổng hòa không những chỉ xét nghiệm huyết thanh ELISA hay Western blot mà còn quan tâm đến các chỉ số bạch cầu ái toan tăng, nồng độ IgE toàn phần tăng, có tổn thương cơ quan gan, thận,…có triệu chứng lâm sàng liên quan đến mày đay, rối loạn tiêu hóa, hội chứng kích thích ruột,..mới điều trị thuốc chống giun sán. Có lẽ vấn đề này bạn tự suy diễn!
Biểu hiện lâm sàng có hay không, xét nghiệm dương tính – Thế tiến thoái lưỡng nan
1. Chẩn đoán lâm sàng và dương tính huyết thanh trên thế giới của thể mắt và thể nội tạng
Nhóm tác giả gồm Rubinsky-Elefant, G.; Hirata, C. E.; Yamamoto, J. H.; Ferreira, M. U đăng tải một bài viết trên tạp chí Annals of Tropical Medicine and Parasitology, Volume 104, Number 1, January 2010 , pp. 3-23(21) tiêu đề Human toxocariasis: diagnosis, worldwide seroprevalences and clinical expression of the systemic and ocular forms cho biết mặc dù bệnh giun đũa chó mèo ở người được sắp xếp là một trong số bệnh nhiễm trùng từ động vật truyền sang người thông thường nhất trên thế giới, song nó vẫn chưa được để ý đến bởi công chúng. Tác nhân gây bệnh là loài giun tròn Toxocara canis và T. cati, với các vật chủ chính là chó và mèo. Khi các trứng đóng phôi (embryonated eggs) bị người nhiễm tình cờ, các ấu trùng sẽ dính vào thành ruột non, xuyên thành ruột và di chuyển thông qua dòng máu đến gan, phổi, cơ, mắt và hệ thần kinh trung ương. Dù hầu hết các trường hợp nhiễm ở người là không biểu hiện triệu chứng, song có hai hình thái lâm sàng xác định rõ được phân loại theo kinh điển là: thể ấu trùng di chuyển nội tạng (VLM_visceral larva migrans) biểu hiện là một bệnh lý toàn thân gây ra bởi ấu trùng di chuyển đến các cơ quan trọng yếu và ấu trùng di chuyển ở mắt (OLM_ocular larva migrans) là bệnh lý chỉ giới hạn ở mắt và thần kinh thị. Hai hội chứng ít nghiêm trọng hơn được mô tả gần đây, một chủ yếu gặp trên trẻ em (thể bệnh giun đũa chó mèo bị ẩn_covert toxocariasis) và một chủ yếu trên người trưởng thành (thể thông thường_common toxocariasis). Nhân đây, chẩn đoán dựa vào xét nghiệm hiện tại, dịch tễ học và đặc điểm lâm sàng chính của cả thể toàn thân và thể mắt của bệnh đã được tổng hợp. Sự ra đời và phát triển của các công cụ chẩn đoán huyết thanh mới đã được giới thiệu, nên các dữ liệu về tỷ lệ nhiễm huyết thanh (seroprevalence) cũng sẵn có cho phân tích và kết quả của các nghiên cứu lâm sàng có liên quan đã được ấn bản qua hơn một thập niên qua để cung cấp và cập nhật về bệnh nhiệt đới lãng quên này nhưng có tỷ lệ nhiễm cao ở người.
2. Biểu lộ lâm sàng và sự “tiến thoái lưỡng nan” trong điều trị
Tác giả Z. Pawlowskiđến từ Đại học khoa học y khoa Dabrowskiego 79, 60-529 Poznań, Ba Lan cho biết: một mô hình mới cho việc xác định các thể lâm sàng của bệnh giun đũa chó, mèo gồm:
(i)Thể hệ thống hoặc toàn thân: thể VLM cổ điển và VLM không hoàn chỉnh;
(ii)Các thể theo từng phần, từng cơ quan: bệnh giun đũa chó mèo ở thần kinh và mắt;
(iii)Thể bệnh giun đũa chó mèo ẩn dấu (covert toxocariasis);
(iv)Thể bệnh giun đũa chó mèo không triệu chứng. Các chỉ điểm sau đây giúp xác định các thể lâm sàng gọi theo như trên. Đặc điểm lâm sàng bệnh nhân và bệnh sử, dấu chứng và triệu chứng lâm sàng, huyết thanh học dương tính, chỉ số bạch cầu ái toan tăng và nồng độ IgE tăng cao.
Trong số các loại thuốc có sẵn trên thị trường hiện nay, thì thuốc albendazole được sử dụng nhiều nhất, dù các thuốc thuộc nhóm benzimidazole khác có hiệu lực tương đương. Liều khuyến cáo của Albendazole là 15mg/kg mỗi ngày x 5 ngày trong một số trường hợp bị hội chứng VLM và quá trình điều trị cần lặp lại. Việc đánh giá hiệu lực điều trị có thể tiến hành theo dõi chỉ số bạch cầu ái toan trong một tuần và theo sau đó là sự cải thiện triệu chứng lâm sàng, chỉ số eosin thấp hơn và các xét nghiệm huyết thanh qua một thời gian theo dõi ít nhất là 4 tuần.Thêm vào đó các biểu hiện lâm sàng đối với điều trị đặc hiệu cho VLM và OLM, việc điều trị dự phòng cần xem xét trên các đối tượng nghi có ấu trú đóng kén trên não trong quá trình điều trị và nhiễm bệnh. Để làm giảm đi sự di chuyển của các ấu trùng Toxocara thì một liều trình duy nhất của albendazole được đề nghị trong trường hợpchỉ số eosin và dương tính huyết thanh mức độ trung bình.
3. Những điểm nổi bật trong bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo
Một nghiên cứu gần đây cho biết nhóm nghiên cứu Magnaval JF, Glickman LT, Dorchies P, Morassin B đang làm việc tại khoa ký sinh trùng, bệnh viện trung tâm của đại học Rangueil 31403 Toulouse 4, Pháp cho biết bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo ở người là một bệnh giun truyền từ động vật sang người (helminthozoonosis) do quá trình di chuyển của ấu trùng đặc biệt của loài Toxocara trên khắp cơ thể người. Người trở nên nhiễm do ăn phải các trứng thụ tinh (embryonated eggs) từ đất (do thói quen ăn đất, mút tay), tay bẩn hoặc ăn rau sống không sạch, hoặc nuốt phải ấu trùng từ các lòng, cổ cánh, chân gà, ngỗng nấu chưa chín (undercooked giblets) nhiễm bệnh. Chẩn đoán dựa vào các phương pháp miễn dịch có độ nhạy (ELISA hoặc Western-blot) được sử dụng các kháng nguyên tiết (Toxocara excretory-secretory antigens). Tỷ lệ dương tính huyết thanh cao trong các quốc gia đã phát triển, đặc biệt tại các vùng nông thôn và cũng như một đảo nhiệt đới. Phổ lâm sàng của bệnh bao gồm 4 hội chứng, gọi là VLM (visceral larva migrans), OLM (ocular larva migrans), và gần đây nhận ra hơn và hay gặp trên người lớn và thể ẩn (hay gặp trẻ em). Liệu pháp điều trị bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo tại mắt trước tiên là thuốc corticosteroids, khi có VLM và một số trường hợp thường gặp hoặc bệnh ấu trùng giun đũa chó ẩn có thể điều trị bằng thuốc chống giun sán và có vẻ có hiệu quả như DEC (diethylcarbamazine). Khi được chẩn đoán, tất cả các hội chứng này đòi hỏi phải phòng tái nhiễm (đặc biệt sổ giun cho các vật cưng) và giáo dục vệ sinh.
4. Bệnh Toxocariasis trên trẻ em – một vấn đề lâm sàng khó khăn
Nhóm tác giả Gawor J, Borecka A, Dobosz S, Marczyńska M, Zarnowska-Prymek H, Trzebicka A, Juszko J. Pracownia Parazytoz Zwierzat Domowych, Instytutu Parazytologii im. W. Stefańskiego PAN w Warszawie đăng tải trên tạp chí Przegl Epidemiol. 2008;62(2):407-13. cho biết bệnh giun đũa chó mèo là một bệnh truyền từ động vật sang người do ấu trùng giun đũa Toxocara canis hoặc T. cati di chuyển trong cơ thể cơn người. Thông tin này cung cấp các khía cạnh về bệnh học nhiễm trùng, khía cạnh lâm sàng của bệnh Toxocariasis ở trẻ em. Các trường hợp được chẩn đoán trong những năm gần đây tại miền trung Ba Lan đã được báo cáo. Bệnh được nhận ra một cách tình cờ dựa vào kết quả phân tích xét nghiệm vì các bệnh khác, khi các bất thường được đề nghị do giun sán (eosin tăng cao và nồng độ IgE tăng trong máu). Tỷ lệ nhiễm của các gia đình bệnh nhân cho thấy nguy cơ nhiễm và tái nhiễm đều cao, cả nông thôn và vùng thành thị. Dữ liệu trình bày ở đây chỉ ra việc cần giáo dục sức khỏe nên thiết lập trong nhiễm Toxocara ở trẻ em.
5. Một ca bệnh giun đũa chó tái phát biểu hiện mày đay
Kim MH, Jung JW, Kwon JW, Kim TW, Kim SH, Cho SH, Min KU, Kim YY, Chang YS đang làm việc tại Khoa Nội, đại học y khoa quốc gia Seoul, Korea cho đăng tải một ca bệnh tái phát của giun đũa chó trên tạp chíAllergy Asthma Immunol Res. 2010 Oct;2(4):267-70. Epub 2010 Aug 20.
Bệnh do ấu trùng giun đũa chó mèo là một bệnh giun sán lưu hành nhất tại Hàn quốc và một số quốc gia công nghiệp. Đặc điểm lâm sàng của bệnh đa dạng trong biểu hiện, tùy thuộc vào cơ quan liên đới. Điển hình, nhiễm Toxocara spp. dễ dàng điều trị bằng 400 mg albendazole x 2 lần/ ngày x 5 ngày. Tuy nhiên, họ đã có kinh nghiệm một trường hợp bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo tái phát rất khó chữa với liệu pháp chuẩn này, biểu hiện mày đay, các triệu chứng không hay gặp.
Một nam giới 35 tuổi vào khoa cấp cứu vì đau bụng. Anh ta gần đây có ăn gan sống (3 tuần trước khi nhập viện). Phân tích các kết quả xét nghiệm biểu hiện tăng bạch cầu ái toan (1,612 cells/µL) và tăng chỉ số IgE toàn phần (3,060 IU/mL), chụp X-ray cho thấy nhiều hình ảnh nodules trên cả hai phổi và chụp CT biểu hiện nhiều khối mờ đục (ground-glass opacities) trên cả hai phổi và nhiều khối abces nhỏ ở gan. Sinh thiết gan cho thấy một khối abces thâm nhiễm bạch cầu ái toan. ELISA phát hiện kháng thể chống lại kháng nguyên Toxocara dương tính (OD = 2.14), dẫn đến chẩn đoán là bệnh ấu trùng giun đũa chó. Họ điều trị liệu trình 5 ngày ALB và prednisolone; song sau 6 ngày hoàn thành điều trị, bệnh nhân lại bị mày đay lại và ngứa trầm trọng hơn, không thể khống chế bằng thuốc antihistamines hay kem hydrocortisone.
Lần thứ hai có tăng bạch cầu ái toan cho thấy bệnh giun đũa có tái phát, kê đơn lại thuốc ALB. Dù cải thiện ban đầu về triệu chứng, bệnh nhân quay trở lại sau 6 tuần với phàn nàn là đau bụng trong vòng 6 giờ qua, điều này biểu hiện “reminiscent” của cơn đầu tiên, anh ta cũng tăng bạch cầu ái toan. Theo đó, ALB được kê đơn 1 ngày một lần trong tuần tiếp theo và thế là triệu chứng được giải quyết.
6. Phân tích lâm sàng 8 bệnh nhân bị ấu trùng giun đũa chó, mèo tại phổi
Nhóm tác giả Yoshikawa M, Koyama N, Hontsu S, Yamamoto Y, Ogawa S, Nakamura T, Mizuno Y, Miura S, Mikasa K, Kimura H đang công tác tại khoa Ký sinh trùng, đại học y khoa Nara cho biết họ vừa mới đăng tải 8 ca bệnh trên ở tạp chí Nihon Kokyuki Gakkai Zasshi. 2010 May;48(5):351-6.
Nhóm nghiên cứu đối mặt với 8 ca bệnh giun đũa chó mèo tại phổi (pulmonary toxocariasis). 5 ca không có triệu chứng, 1 ca có biểu hiện đau ngực thoáng qua, một ca biểu hiện đau khớp và một ca có hội chứng ấu trùng di chuyển trên da, đau và một ca có tràn khí màng phổi. Nhiễm trùng có liên quan đến ăn các gan còn sống của vật chủ “paratenic hosts” trên 5 ca bệnh. Nguyên nhân bị nghi ngờ tiếp xúc với các con chó con bị nhiễm bệnh và chưa xác định hai ca.
Tất cả 8 trường hợp cho thấy bất thường trên xét nghiệm, gồm tăng bạch cầu ái toan (> 500/microl) và tăng IgE (> 100 IU) và tất cả cho kết quả huyết thanh dương tính với kháng nguyên tiết ES của Toxocara canis. Trên 7 bệnh nhân, ngoại trừ bệnh nhân bị tràn khí màng phổi, chụp CT scanner coh thấy nhiều hình ảnh tổn thương ở phổi nhỏ, hầu hết trong số đó có nodules kèm theo halos, hoặc có hình móng mờ, trong suốt. Một bệnh nhân phục hồi không cần can thiệp thuốc điều trị, 7 ca khác điều trị bằng thuốc Albendazole (ABZ) có đáp ứng tốt. Mặc dù thời gian tối ưu liệu pháp ABZ không được thiết lập, 4 tuần hoặc thời gian dài hơn dường như cần thiết để điều trị khỏi trên các ca bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo thể phổi.
Chỉ qua 6 báo cáo trên y văn mà chúng tôi ghi nhận được trong thời gian quan tại các vùng và quốc gia lãnh thổ có lưu hành bệnh ấu trùng giun đũa chó, mèo cao trên thế giới đã giúp cho chúng ta thấy được bức tranh lâm sàng toàn cảnh của họ đưa ra (cụ thể và đặc trưng, có kiểm chứng trước và sau khi điều trị thuốc Albendazole và thiabendazole) khi so với thực trạng chẩn đoán ca bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo tại Việt Nam hiện nay, có lẽ còn nhiều vấn đề cần quan tâm, cần bàn luận và có những thống nhất chung chứ không nên chủ quan dựa vào một xét nghiệm ELISA dương tính mà sàng lọc bệnh dương tính để mà điều trị là không cần thiết, đó là chưa kể đến hậu quả độc tính trước mắt và trường diễn theo sau điều trị bằng thuốc albendazole kéo dài, liều cao lên hệ máu và gan mật, tiêu hóa sau này.