Giun đũa chó, mèo ở có thể là một nguyên nhân gây viêm khớp tăng bạch cầu Eosine; Nhân một trường hợp sán lá gan F. hepatica lạc chỗ ở da; Đa chấm xuất huyết và khối máu tụ trong não liên quan SLGL lạc chỗ trong não và mắt; Ca bệnh giun đầu gai xâm nhập vào hệ thần kinh nghiêm trọng
Giun đũa chó, mèo ở có thể là một nguyên nhân gây viêm khớp tăng bạch cầu Eosine
Nhóm tác giả gồm A. A. Rayes và J. R. Lambertucci đang công tác tại khoa y học lâm sàng, Av. Alfredo Balena, 190, B. Sta. Efigênia, Belo Horizonte, MG, Brazil báo cáo một trường hợp viêm khớp có liên quan đến bệnh giun đũa chó mèo ở người. Chúng tôi đã tập hợp nhiều loạt ca bệnh bởi tác giả Tay, trong đó có báo cáo 10 ca bệnh viêm khớp có tăng bạch cầu ái toan có khả năng liên quan đến bệnh do ký sinh trùng hoặc gây nên các tình trạng dị ứng không biết dị nguyên. Điều trị bằng thuốc DEC (diethylcarbamazine) hoặc Levamisole trên 4 bệnh nhân đề kháng với corticosteroid, dẫn đến giải quyết toàn bộ triệu chứng lâm sàng và biến mất vấn đề tăng bạch cầu ái toan. Một bệnh nhân 39 tuổi vẫn còn khỏe mạnh trong vòng một tháng trước khi nhập viện, khi anh ta trình bày có viêm khớp liên quan đến cả hai khớp cổ chân. Không có báo cáo nào có sốt, ho, hay có triệu chứng bất thường nào khác. Bệnh nhân tiếp xúc với chó cưng ở nhà. Thăm khám lâm sàng chỉ có dấu hiệu đáng kể đáng chú ý là sưng phồng, ban đỏ và tăng thân nhiệt tại chỗ cả hai khớp cổ chân. Xét nghiệm cận lâm sàng cho thấy tăng bạch cầu ái toan lên đến 2300/mm3. Xét nghiệm huyết thanh ELISA đối với Toxocara canis (sử dụng kháng nguyên tiết) cho phản ứng dương tính cao. Bệnh nhân được điều trị bằng thuốc Indomethacin liệu trình 15 ngày, kết quả cho thấy không giải quyết hết triệu chứng hoàn toàn. Khi làm huyết thanh học đối với bệnh giun đũa chó mèo thì dương tính, nên dùng thuốc Ivermectin liều duy nhất, là loại thuốc mà gần đây đã được báo cáo nhiều trong việc chống lại bệnh giun đũa chó mèo ở người. Không thấy tái xuất hiện triệu chứng lại sau 3 tháng kể từ khi xuất viện.
Trên một mô hình chuột nhiễm bệnh giun đũa cho mèo, chúng tôi quan sát thấy sự xuất hiện của sưng khớp của chuột đã nhiễm T. canis, nhưng chúng tôi không thực hiện phân tích mô bệnh học. Trong các nghiên cứu lâm sàng, viêm khớp đã được báo cáo trên các bệnh nhân nhiễm trùng loại ký sinh trùng T. canis. Bệnh giun đũa chó mèo bị quy kết đã gây ra viêm khớp trên một số ca bệnh báo cáo bởi tác giả Tay và cộng sự, khi nồng độ IgE trong huyết thanh tăng cao, phù chân và ban đỏ ở da cũng được nhìn thấy trên các bệnh nhân này. Những hình ảnh như thế cũng được mô tả trên nhiễm T. canis, điều trị bằng thuốc Diethylcarbamazine, một loại thuốc thường dùng trong hội chứng ấu trùng di chuyển thể tạng (visceral larva migrans syndrome), cho kết quả giải quyết tốt các triệu chứng trên những ca viêm khớp đề kháng với steroides. Chỉ có 2/7 ca bệnh này có gia tăng nồng độ IgE trong huyết thanh – một thử nghiệm không phải lúc nào cũng mong đợi trong bệnh ký sinh trùng giun đũa chó mèo, có thể vắng mặt đến 27% số bệnh nhân mắc bệnh giun đũa chó mèo.
Cơ chế cơ bản của viêm khớp ở hội chứng ấu trùng di chuyển thể tạng đến nay vẫn chưa được hiểu thấu đáo, nhưng các thay đổi về mặt miễn dịch học đã được báo cáo trong thể dương tính với yếu tốt thấp (RF) và dịch tràn trong ngoại tâm mạc vô trùng và điều trị đặc hiệu cho bệnh giun đũa chó mèo đã giải quyết tốt các triệu chứng. Nghiên cứu tiếp theo cần tiến hành làm rõ mỗi liên quan có thể này và đặc biệt nhiễm trùng lặp lại loài T. canis, vì tái nhiễm sẽ kích thích đáp ứng miễn dịch mạnh hơn trên các vật chủ vốn dĩ nhạy cảm với căn bệnh này. Giả thuyết này đang được xem xét và tỏ ra khá thuyết phục với nhóm nghiên cứu.
Nhân một trường hợp sán lá gan F. hepatica lạc chỗ ở da
Xiao Yi-zhu và Yang Zhi-bang đang công tác tại bệnh viện nhi của Đại học y khoa Chongqing, khoa Da liễu nhi Chongqing; khoa sinh bệnh học của Đại học y khoa Chongqing, Trung Quốc báo cáo một trường hợp sán lá gan lớn lạc chỗ ở da trên một cậu bé 4 tuổi nhập viện với tiền sử sốt tái hồi 4 tháng nay và kèm theo đau bụng. ½ tháng trước khi nhập viện, nhiều nốt đỏ dưới da nổi lên tại vùng thượng vị bên (T) và một vệt rắn bò màu đỏ sậm tại cùng vị trí. Ngày sau đó, bệnh nhân nhập viện, một con sán phá vở và bò ra da ở vị trí cuối vết di chuyển. Sán dẹt được xác định là Fasciola hepatica giai đoạn non. Tăng bạch cầu ái toan được phân biệt trên bệnh nhân và cung cấp một thông tin quan trọng để chẩn đoán bệnh lý ký sinh trùng.
Đa chấm xuất huyết và khối máu tụ trong não liên quan SLGL lạc chỗ trong não và mắt
Liangxue Zhou, MD thuộc khoa phẩu thuật thần kinh, West China Hospital, Sichuan University, Chengdu, 610041 China và Lingli Luo, thuộc khoa gây mê hồi sức, West China Hospital, Sichuan University, Chengdu, 610041 China; Chao You, thuộc khoa phẩu thuật thần kinh, West China Hospital, Sichuan University, Chengdu, 610041 China; Bing Wang, khoa phẩu thuật thần kinh, West China Hospital, Sichuan University, Chengdu, 610041 China; Jianguo Xu, Lin Liao, thuộc khoa ký sinh trùng, West China Center of Medical Science, Sichuan University, Chengdu, China; Xuhui Hui, khoa phẩu thuật thần kinh, West China Hospital, Sichuan University, Chengdu, 610041 China; Bowen Cai, khoa phẩu thuật thần kinh, West China Hospital, Sichuan University, Chengdu, 610041 China cùng nghiên cứu cho kết quả:
Sán lá gan lớn là một bệnh nhiễm trùng ký sinh trùng do loài Fasciola hepatica. Người nhiễm phải do tình cờ do ăn phải thực phẩm nhiễm ấu trùng giai đoạn nhiễm metacercariae; ký sinh trùng tồn tại hầu như trong đường mật nhưng hiếm khi thấy ở các cơ quan khác. Chúng tôi báo cáo một ca bệnh lạc chỗ thú vị trên cả não và mắt (P) của một cậu bé đang tuổi đi học, điều này có liên quan đến hai khối phình mạch chưa vỡ. Đối với những gì chúng tôi hiểu biểu, chưa có ca nào tìm thấy trên y văn tương tự.
Sau khi tiêu hóa loại cua sống Potamon denticulata trong vòng 4 tháng, một câu bé 10 tuổi cho thấy các đặc điểm lâm sàng trên hệ thần kinh gây ra bởi 5 giai đoạn của xuất huyết trong sọ não và khối máu tụ. Đồng thời, cậu bé bị đau rất dữ ở mắt (P) kèm theo đau đầu, nôn mửa, đau nhức mắt và lồi mắt, liệt dây thần kinh mắt số 6. Chụp X quang kỹ thuật số cho thấy có hai khối phình mạch chưa vỡ trong não. Chẩn đoán xác định ca bênh này xác định nhờ vào quan sát thấy giun di chuyển ra khỏi vết phồng vùng kết mạc của bệnh nhân và nhờ vào kết quả xét nghiệm cận lâm sàng. Bệnh nhân được điều trị bằng praziquantel và các triệu chứng hồi phục. Hai khối phình mạch không được phẩu thuật nhưng lại phải theo dõi lâu dài. Theo dõi trên phim chụp DSA cho thấy một khối phình mạch biến mất nhưng khối còn lại vẫn giũ nguyên.
Đa khối xuất huyết ở não và khối máu tụ có thể có liên quan đến bệnh lý sán lá gan lớn lạc chỗ trong não và mắt. Nhiễm trùng nội sọ đôi khi gây ra do sán F. hepatica hoặc các loài ký sinh trùng khác có thể dẫn đến sốt không rõ nguyên nhân, tăng bạch cầu ái toan và xuất huyết nội sọ không rõ nguồn căn. Việc tiêu hóa phải các loài cua sống P. denticulata có thể là một đường lan truyền không thường xuyên của bệnh sán lá gan lớn.
Ca bệnh giun đầu gai xâm nhập vào hệ thần kinh nghiêm trọng
Một nam giới 18 tuổi có triệu chứng qua 3 ngày nay gồm sốt, đau thắt lưng, chóng mặt, thất điều, nhức đầu và liệt nửa mặt bên trái. Anh ta cho biết rằng anh ta có dấu sưng phồng ở da trên một đường di chuyển trong khoảng một tháng nay. Chế độ ăn của anh ta thường gồm món cá sống. Công thức máu cho thấy chỉ số bạch cầu 7.100/mm3 với ưu thế 33% là bạch cầu ái toan. Chụp CT scan não cho thấy dấu hiệu phù não lan tỏa. Chụp MRI não cho hình ảnh nhiều thương tổn giống giun đa dạng trên cả hai bán cầu đại não và tiểu não, điều này không tăng lên sau khi tiêm thuốc gadolinium. Chọc dịch não tủy cho thấy áp lực mở 250mm nước, xuấ hiện màu vàng xanh, tế bào bạch cầu 3.000 với ưu thế 70% là bạch cầu ái toan; nồng độ protein là 51mg/dl và glucose là 5.1 mmol/L. Xét nghiệm Immunoblot mẫu dịch não tủy dương tính với loài ký sinh trùng Gnathostoma spp. Điều trị bằng albendazole không được vì liên quan đến phù não nghiêm trọng có thể hình thành phát triển thêm nếu giun chết đột ngột. Prednisolone được cho liều 60mg/ ngày trong 7 ngày. Bệnh nhân cải thiện dần dần trong 2 tuần và sau đó xuất viện kèm theo liệt nhẹ ½ người bên (T). Sáu tháng sau khi xuất viện, anh ta vẫn còn “spasticity” nhẹ bên chân trái nhưng không có yếu. Bệnh giun đầu gai thường do loài Gnathostoma spinigerum và thường phát hiện nhiều nhất ở Đông Nam Á. Triệu chứng lâm sàng có liên quan đến cơ chế cơ học liên quan đến quá trình di chuyển của ấu trùng giun đầu gai.
Tài liệu tham khảo
1.Tay CH. Eosinophilic arthritis. Rheumatology1999;38:1188–94. Abstract/FREE Full Text
2.Konate A, Duhamel O, Basset D et al. Toxocarose et troubles fonctionnels intestinaux. Présentation de 4 cas. Gastroenterol Clin Biol1996;20:909–11.Medline
3.Rayes AA, Teixeira DM, Nobre V et al. Visceral larva migrans syndrome complicated by liver abscess: a case report. Scand J Infect Dis1999;31:324–25.CrossRefMedlineWeb of Science
4.KerrMuir MG. Toxocara canis and human health. Br Med J1994;309:5–8.