Màn tẩm hóa chất
Sử dụng rộng rãi màn tẩm hoá chất (insecticide-treated bednets-ITNs) là biện pháp phòng chống sốt rét chủ yếu hiện nay ở Châu Phi vì đã góp phần giảm số ca mắc và chết do sốt rét, đặc biệt là ở những đối tượng trẻ em dưới 5 tuổi và phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, việc cung cấp màn tẩm được xem là tốn kém và khó khăn, nhất là dân cư vùng xa xôi hẻo lánh. Cán bộ y tế cộng đồng cũng đã có vai trò tích cực trong việc tăng cao diện bao phủ của màn tẩm bằng cách lồng ghép với chiến dịch phòng chống các bệnh khác như sởi, bại liệt, và các bệnh giun đường ruột khác. Kinh nghiện gần đây của Nigeria cho thấy sự thành công của việc lồng ghép sử dụng màn tẩm để phòng chống sốt rét và bệnhgiun chỉ bạch huyết.
Giun chỉ bạch huyết (Lymphatic filariasis – LF) là một loại kí sinh trùng lây truyền qua muỗi đốt, ảnh hưởng đến hơn 120 triệu người trên 80 quốc gia. Giun cái trưởng thành đẻ ra ấu trùng giun chỉ (microfilariae) và lưu hành trong máu người bệnh. Khi bị muỗi đốt, ấu trùng vào cơ thể muỗi và được truyền qua người lành. Giun chỉ bạch huyết là nguyên nhân dẫn đầu gây tàn phế cao trên thế giới. Giun chỉ trưởng thành sống nhiều năm trong hệ bạch huyết người bệnh, nơi chúng thường gây tắt nghẽn và gây tác hại cho hệ thống này. Hậu quả là người bệnh bị chứng sưng hạch bạch huyết và phù voi, bộ phận sinh dục và mất khả năng cảm giác ở tay chân. Những cơ quan này lại dễ bị nhiễm khuẩn, và bệnh có thể bị ảnh hưởng suốt đời.
Liên kết những nỗ lực ở châu Phi
Ơ Châu Phi, giun chỉ bạch huyết và sốt rét thường xảy ra trong cùng khu vực và được lan truyền bởi cùng loài muỗi. Do đó việc lồng ghép các biện pháp can thiệp của hai bệnh này sẽ mang lại lợi ích. Sử dụng cùng các nguồn lực sẽ làmgiảm giá thành màn tẩm, và phòng chống vector có thể làm giảm sự lan truyền của giun chỉ bạch huyết và sốt rét.
Tại Nigeria, dưới sự tài trợ của tổ chức Sáng kiến đẩy lùi SR (RBM),chương trình phát triển quốc gia loại trừ giun chỉ bạch huyết đã được lồng ghép với chương trình phòng chống sốt rét, bằng cách kết hợp chương trình điều trị thuốc toàn dân và cung cấp màn tẩm hoá chất. Ở hai huyện Kanke và Akawnga (tổng dân số sắp xỉ 218.000 nghìn người), hai chương trình đã triển khai các hệ thống hậu cần, tập huấn cán bộ phân phối, và truyền thông giáo dục dân cư địa phương về sử dụng màn tẩm ITNs.
Kết quả đạt được
Từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2004, có 38.600 màn tẩm (INTs) đã được phân phát cho 159 thôn, trong đó trẻ em dưới 5 tuổi và phụ nữ mang thai được cấp miễn phí. Việc cung cấp màn tẩm được thực hiện đồng thời với đợt điều trị thuốc toàn dân (MDA). Trong thời gan đó, có khoảng 148.000 người được điều trị giun chỉ bạch huyết.
Những số liệu ban đầu qua việc đánh giá được tiến hành sau 8 tháng thực hiện cho thấy số gia đình có trẻ em dưới 5 tuổi hoặc phụ nữ mang thai sử dụng màn tẩm đã tăng gấp 9 lần so với trước đây, từ 9% lên 80%. Độ bao phủ thuốc điều trị giun chỉ vẫn còn cao ở nhiều năm sau đó (68%). Như vây, tổ chức điều trị thuốc toàn dân đã giúp làm tăng độ che phủ màn tẩm mà không ảnh hưởng đến việc phân phát thuốc.
Sự thành công của thí điểm cho thấy sự phân phối màn tẩmcó thể thành công khi lồng ghép các chương trình phòng bệnh với nhau. Đặc biệt, nó đã chứng tỏ rằng bằng cách phối hợp các nguồn lực giữa các chương trình phòng chống hai loại bệnh nguy hiểm do muỗi truyền với nhau, các mục tiêu chương trình có thể đạt được nhanh chóng hơn, tốt hơn và ít tốn kém.