Tiên đoán và xây dựng bản đồ sốt rét dưới viễn cảnh biến đổi khí hậu: Sự tái phân bố tiềm tàng của vector sốt rét tại châu Phi
Một nhóm tác giả gồm Henri EZ Tonnang, Richard YM Kangalawe,Pius Z Yandađã nghiên cứu về viễn cảnh sốt rét dưới điều kiện thay đổi thời tiết, khí hậu đăng trên tạp chí Malaria Journal 2010, 9:111doi:10.1186/1475-2875-9-111. Sốt rét dường như vẫn đang phát triển không chững lại tại châu Phi, gây ra tỷ lệ bệnh tật và tỷ lệ tử vong vô kể. Những bệnh lây truyền qua vector thường nhạy cảm với sư thay đổi thời tiết và điều này gia tăng mối quan tâm liên đới đến sự thay đổi khí hậu có nguy cơ bệnh tật tương lai.
Các vấn đề vector sốt rét (Anopheles) chuyển dịch từ các vùng vốn cũ sang các vị trí mới là một mối quan tâm quan trọng. Tầm nhìn của nghiên cứu này là khai thác các thông tin chung trước đây bởi các nàh côn trùng học, chẳng hạn thay đỏi về mặt địa lý của các vector sốt rét và phân bố sốt rét, để xây dựng mô hình có thể tiên đoán và dựng bản đồ cho sự tái phân bố tiềm tàng của muỗi sốt rét tại châu Phi.
Phát triển công cụ mô hình tiến hành thông qua sự hiệu chỉnh của các thông số CLIMEX. Mô hình này giúp ước đoán phan bố địa lý tiềm tàng và sự trù phú của chủng loại có liên quan đến các yếu tố thời tiết. Các yếu tố này gồm nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm tương đối là những đặc điểm của môi trường sống cho muỗi Anopheles. Các thông số giống nhau được sử dụng xác định các chỉ số thời tiết-sinh thái (ecoclimatic index_EI). Các giá trị của EI được tải lên GIS để phân tích và xây dựng bản đồ phù hợp cho phân bố tiềm tàng trong tương lai của loài muỗi Anopheles gambiae và Anophles arabiensis trong lục địa châu Phi dưới 3 viễn cảnh thời tiết khác nhau.
Các kết quả nghiên cứu này chỉ ra sư chuyển dịch các loài muỗi sốt rét đi từ hướng nam và đông của châu Phi có thể xảy ra nhiều hơn khi có sự thay đổi thời tiết và môi trường. Nếu không có biện pháp phòng chống đầy đủ, các tiên đoán này sẽ cho phép tiên đoán và khả năng phân bố của muỗi sốt rét và bệnh khi đó, và nghiên cứu này cũng đề ra các lựa chọn phù hợp.
Do vậy, kết quả mang lại từ nghiên cứu này sẽ giúp ích rất nhiều trong việc đề ra quyết định ở những mức đọ khác nhau, chẳng hạn xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và chiến lược bền vững khi có biến đổi khí hậu tại châu Phi.
Chẩn đoán sốt rét quá mức: Có phải là một vấn đề áp lực cho bệnh nhân không?
Nhóm nghiên cứu Clare I R Chandler, Rose Mwangi, Hilda Mbakilwa, Raimos Olomi, Chris J M Whitty và Hugh Reyburn đang công tác tại khoa bệnh nhiệt đới, Đại học y học nhiệt đới và vệ sinh Luân Đôn, Anh, Chương trình sốt rét của Moshi, Tanzania nghiên cứu và khỏa sát cho biết: Tại châu Phi, thuốc sốt rét thường được kê đơn khi không có triêu chứng sốt rét, một vấn đề đang trở nên nghiêm trọng và rất phí tiền vì các thuốc đắt tiêng đang thay thế các thuocs cổ điển.
Tuy nhiên, ít ai biết được vấn đề đã lạm dụng trong cho thuốc sốt rét như thế nào. Một nghiên cứu tiến hành để thăm dò và khảo sát thực hành kê đơn thuốc sốt rét hiện tại rộng rãi và không đúng như thế nào tại các bệnh viện và xem đó có phải là yêu cầu bệnh nhân hay không? Các vấn đề từ vấn và phỏng vấn liên quan đến bệnh nhân và nhân viên y tế. % bệnh viện huyện - nơi mà có kính hiển vi hoạt động thường quy được lựa chọn trong vùng sốt rét lan truyền thấp (n = 3) và vùng lan truyền cao (n = 2) tại khu vực đông bắc của Tanzania.
Tất cả bệnh nhân ngoại trú trong quá trình nghiên đều được quan sát và phỏng vấn (n = 669). Cuối nghiên cứu, các thầy thuốc phỏng vấn các ý kiến của họ về sử dụng thuốc sốt rét như thế nào. Kết quả cho thấy yêu cầu của bệnh nhân không phải là tuyệt đối và không phải là “mạnh mẽ” trong việc kê đơn thuốc quá mức tại các bệnh viện. Ngược lại, liên quan đến bệnh nhân có thể cung cấp cơ hội nâng cao thực hành kê đơn thuốc nếu diễn ra theo hướng xét nghiệm và kê đơn thuốc điều trịkhi có kết quả là hiệu quả nhất.
Nghiên cứu phòng chống bệnh sốt rét bằng điện thoại di động tại Zanzibar (Tanzania)
Các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Florida (Mỹ) đang tiến hành một trong những nghiên cứu với mục tiêu loại trừ bệnh sốt rét ở châu Phi, đã lần đầu tiên dùng phương pháp ghi lại các cuộc gọi bằng điện thoại di động để kiểm soát sự lây lan của căn bệnh này.
Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã phân tích hơn 21 triệu cuộc gọi để xác định mức độ thường xuyên di chuyển và nơi nào đã đi qua của người dân Zanzibar. Zanzibar là một khu vực bán tự trị gồm 2 hòn đảo của quốc gia Tanzania, thuộc Đông Phi. Tại Zanzibar trong nhữngnăm gần đây, tình hình bệnh sốt rét đã giảm mạnh nhờ vào các nổ lực của chính phủ và các tổ chức quốc tế và đã đến thời điểm các nhà lãnh đạo quốc gia này kêu gọi một chiến dịch mạnh hơn nữa nhằm loại trừ bệnh sốt rét ra khỏi đất nước họ.
Từ các cuộc gọi, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng, hầu hết số dân cư bản địa này thường có những chuyến đi ngắn ngày đến Darxes Salaam - thành phố lớn nhất gần Zanzibar trên đất liền của Tanzania, nơi có tỷ lệ lưu hành bệnh sốt rét ở mức trung bình và thấp. Tuy nhiên, họ cũng nhận thấy một số không ít người dân Zanzibar đã có các chuyến đi dài ngày đến các vùng xa hơn nơi mà tình hình sốt rét vẫn còn phức tạp.
Nhóm dân là nhóm có nguy cơ thật sự nguy hiểm và rất khó loại trừ sốt rét tại Zanzibarnói riêng và các vùng tại Tanzania nói chung- theo nhận định của Andy Tatem, một giáo sư về địa lý và là thành viên của Viện Nghiên cứu các bệnh nguy hiểm, Anh và là tác giả chính của một nghiên cứu sắp được đăng trên Tạp chí sốt rét.
Đây là nhóm đối tượng có nguy cơ tái nhiễm và là một trong những yếu tố lan truyền bệnh tại hòn đảo này. Bệnh sốt rét không tự có khả năng lây từ người sang người, nhưng nếu bị nhiễm ở một nơi khác rồi quay về thì số người này hoàn toàn có thể lây nhiễm cho cư dân tại Zanzibar bởi ở đây có trung gian chính truyền bệnh là một số loài muỗi sốt rét.
Như vậy sự dự báo của các cơ quan tại địa phương sẽ không có hiệu quả nếu không có các biện pháp khác. Trong nhiều thập kỷ qua, những chương trình của Zanzibar phòng chống sốt rét đã làm giảm tỷ lệ từ 40% xuống dưới 1%. Ông Tatem cho biết quốc gia này dùng một khoản chi phí khá lớn cho các chương trình nhằm loại bỏ bệnh sốt rét và một khoản ngân sách không hạn chế dành cho các biện pháp kiểm soát dài hạn căn bệnh này.
Theo ông Tatem cho biết châu Phi đang có một nghiên cứu khả thi loại trừ sốt rét, trong đó bao gồm nghiên cứu về sự tác động của việc đi du lịch. Đã có hơn 770 nghìn cuộc gọi được ghi lại trong 3 tháng cuối năm 2008. Từ các cuộc gọi này, các nhà nghiên cứu có thể biết được thông tin về địa điểm của người đang gọi và sự di chuyển của họ thông qua các cuộc gọi này. Nhiều người sử dụng điện thoại chưa bao giờ ra khỏi Zanzibar, điều này có nghĩa rằng họ không đặt ra mối đe dọa về nguy cơ tái nhiễm KSTSR, ít nhất là từ bên ngoài, ông Tatem nói. Khoảng 12% dân số đã từng rời đảo, nhưng hầu hết những người này chỉ đến Dar xes Salaam, nơi có sốt rét lưu hành ở mức trung bình và thấp, và họ thường lưu lại đây một đến hai ngày, hoặc chỉ một lúc.
Tuy nhiên, qua thông tin từ các cuộc gọi, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy có một vài trăm người dân ở Zanzibar đã có những chuyến đi đến các vùng phía Tây và Nam của Tanzania, nơi có đến 40% dân số mang trong mình ký sinh trùng sốt rét. Mặc dù vậy, các cuộc gọi được ghi lại đã không cho thấy mối lo ngại nào từ những khách du lịch đến Zanzibar. Nhiều khách du lịch đã đến từ các quốc gia mà bệnh sốt rét không phải là một vấn đề và họ đã được uống thuốc phòng, vì vậy các trường hợp này ít gây ra mối đe dọa về sốt rét ngoại lai. Tuy nhiên, các cư dân đại lục có thể mang các bệnh nhiễm khuẩn khác đến và về lâu dài cần có các nghiên cứu về những mối nguy cơ này.
Ông Tatem cho biết, nghiên cứu này đã mang lại cho chính quyền Zanzibar những điều cần thiết đề tiến tới việc loại trừ bệnh sốt rét ở đây. Các nhà lãnh đạo Zanzibar có thể chọn để cung cấp thuốc phòng sốt rét cho cư dân mình khi đi ra khỏi Zanzibar, hoặc từ đây, chính phủ có thể triển khai các biện pháp kiểm tra y tế cho các khách du lịch có nguy cơ cao (khách đến từ vùng hoặc đã lưu lại ở nơi có sốt rét lưu hành, hoặc các yếu tố dịch tễ khác)
. Zanzibar sẽ dùng kết hợp nghiên cứu này với các nghiên cứu khác có liên quan đến các bệnh nhiễm trùng để đi đến quyết định loại trừ bệnh sốt rét và cách thức tiến hành. Chi phí rất cao cho việc loại trừ bệnh sốt rét, chắc chắn cao hơn nhiều so với việc sử dụng các biện pháp phòng chống hiện nay như tẩm màn, phun hóa chất diệt muỗi và cung cấp thuốc phòng nhưng kinh phí để duy trì các biện pháp này lâu dài có thể sẽ tốn hơn nhiều so với việc loại trừ bệnh, ông Tatem nói.
Kính hiển vi dựa trên điện thoại di động ứng dụng cho chăm sóc sức khỏe toàn cầu
Nhóm nghiên cứu gồm David N. Breslauer, Robi N. Maamari, Neil A. Switz, Wilbur A. Lam, Daniel A. Fletcher đang làm việc tại nhóm thiết kế UCSF/UC Berkeley, đại học California Berkeley, Mỹ và khoa nhi, đại học California San Francisco, California, Mỹ cho biết kính hiển vi (KHV) từ lâu đã tỏ ra là một công cụ dùng đơn giản, đạt chi phí, hiệu quả trong sàng lọc máu và các bệnh nhiễm trùng.
Tuy nhiên, tại nhiều vùng trên thế giới, các trang thiết bị yêu cầu để mang theo đôi khi không đủ hoặc không sẵn có và kỹ thuật viên phải có kinh nghiệm trong chẩn đoán và nhận dạng hình ảnh. Trong các vùng như thế thường được cung cấp mạng lưới điện thoại di động tốt, cho thấy có thể tác động và làm thay đổi được thông qua các điện thoại di động có trang bị camera để chẩn đoán và phục vụ y học từ xa.
Theo hướng này thì một thế hệ KHV có khung điện thoại di động sẽ là tiềm năng sử dụng trong lâm sàng chẩn đoán hình ảnh cho sốt rét P. falciparum và bệnh lý hồng cầu hình liềm và các mẫu đờm nhiễm M. tuberculosis trên kính hiển vi huỳnh quang với đèn LED. Trong tất cả trường hợp, độ phân giải cũng đều cho phép phát hiện hình thể các tế bào máu và ký sinh trùng và với các mẫu xét nghiệm lao thì có nhiều tiến bộ hơn vì hình ảnh kỹ thuật số trong việc cho ra các hình ảnh vi khuẩn thông qua phần mềm phân tích hình ảnh.
Hy vọng rằng với hệ thống y học từ xa như thế (telemedicine system) sẽ là hệ chăm sóc sức khỏe toàn cầu qua điện thoại di động mang lại các kết quả mà không đắt tiền, hệ thống phân tích ảnh dưới ánh sáng huỳnh quang và phân tích ảnh tự động, để cung cấp một công cụ quan trọng chẩn đoán và sàng lọc bệnh, đặc biệt tại các vùng nông thôn, các quốc gia đang phát triển - nơi đó các trang bị la bô hiếm có nhưng cơ sở hạ tầng cho điện thoại di động rất phổ biến.
Mỹ chế tạo kẹo cao su chẩn đoán bệnh sốt rét
Andrew Fung, sinh viên trường Đại học tổng hợp California đã nhận được 100.000 USD từ Quỹ Bill & Melinda Gates để triển khai dự án sản xuất kẹo cao su chuẩn đoán sốt rét. Dự án có tên Maliva (Malaria - bệnh sốt rét, Saliva - nước bọt) hình thành nhờ việc các nhà khoa học phát hiện thấy trong nước bọt của những người mắc bệnh sốt rét 3 protein đặc trưng cho tác nhân gây bệnh này. Trong thành phần kẹo cao su có trộn những hạt nano nhiễm từ mà cuối mỗi hạt đều có gắn các kháng thể. Khi nhai, các kháng thể sẽ quyện với các protein của Plasmodium spp. gây bệnh sốt rét.
Một vài phút sau khi nhai cần đặt bã kẹo lên tấm giấy chỉ định, dưới tác động của từ trường, các hạt nano gắn với các protein của các tác nhân gây bệnh sẽ hiện trên giấy dưới dạng các vạch mang màu nhất định. Theo nhà sáng chế trẻ, dùng kẹo cao su có thể xác định không chỉ tác nhân gây bệnh mà tất cả các loại bệnh. Andrew Fung hy vọng nguyên mẫu kẹo cao su xác định bệnh sốt rét sẽ xuất hiện trong năm nay và giúp phát hiện bệnh mà không cần thử máu.
Thảo dược có thể cứu sống hàng triệu người mắc sốt rét
Theo các nhà khoa học từ đại học York tiên đoán tin tưởng họ sẽ có một sản lượng cao thuốc sốt rét trên diện trồng rộng tại các quốc gia đang phát triển trong vòng 2 năm. Sự khám phá bản đồ di truyền về loại thảo dược thanh hao hoa vàng (The genetic map of the medicinal herb Artemisia annua) sẽ rất có ý nghĩa cứu sống nhiều người không thể kể hết được. Hàng triệu người hiện đang mắc sốt rétvà hy vọng mới sau khi các nhà khoa học Anh mở khoa di truyền về thực vật chữa căn bệnh sốt rét này. Các nhà khoa học cho biết loài cây trồng mới này sẽ được gây giống cho những nhà nông nghèo để phát triển thu hoa lợi và xây dựng nền kinh tế vốn mong manh hiện nay của họ tốt hơn. Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Bill and Melinda Gates Foundation.
Sốt rét đã giết chết ít nhất một triệu người mỗi năm mặc dù căn bệnh này có thể phòng và điều trị được. Các thuốc hiệu quả nhất để điều trị căn bệnh này là nhóm thuốc phối hợp có gốc Artemisinine (ACTs_Artemisinin Combination Therapies). Nhiều nguồn vốn phân bổ để phân phối thuốc này lên đến 200 triệu mỗi năm đến năm 2012. Nhưng thực tế hiện đang thiếu nguồn nguyên liệu Artemisia annua và đây chính là thành phần chính của các thuốc này. Các nàh khoa học đại học York cho biết họ hy vọng có thể đủ nhu cầu trong vòng 2-3 năm đến. Họ sẽ ấn bản bản đồ di truyền thảo dược này lần đầu tiên, vẽ sơ đồ, thứ tự bộ gen của thực vật này, đặc điểm và các marker liên quan với hiệu suất cao trong phiên bản cuối cùng của tạp chí khoa học.
Bản đồ di truyền sẽ giúp cho các nhà khoa học nhận ra các cây non cho hiệu suất cao nhờ vào kết quả của bản đồ này. Điều đó cũng cho biết sự lựa chọn các cây bố mẹ phù hợp nhất để thử nghiệm gây giống. Bản đồ được xác định với các thực nghiệm trong nhà kính cho thấy các kết quả khả quan hiệu suất giống cây trồng cao. Giáo sư Dianna Bowles và giáo sự Ian Graham dẫn đầu nhóm dự án nghiên cứu.
Giáo sư Graham nói rằng: “Bản đồ sẽ chứng minh là một công cụ quan trọng cho chúng tôi. Với những hiểu biết mới về mặt di truyền của cây Artemisia, chúng tôi có thể chứng minh được điều đó, tốc độ diễn tiến này là cần thiết. Chúng tôi dự định gây giống sản lượng cao cho những nông dân trong vòng 2-3 năm đến để cung cấp theo nhu cầu tăng vọt điều trị sốt rét”. Giáo sư Graham nói công trình của họ cho thấy tính di truyền hiện đại như thế nào rút ngắn thời gian cần thiết để xem xét các chủng cây hoang dại chuyển thành cây cho sản lượng chính, với tiềm năng cứu sống hàng triệu người. Các nhà khoa học sẽ tiếp tục tạo ra các sán phảm khác nhau để sử dụng quy mô rộng hơn tại các quốc gia đang phát triển và là nguồn thu nhập quan trọng cho nông dân. Dự án này cũng đã nhận được nguồn tài trợ thứ 2 từ Bill & Melinda Gates Foundation. Quỹ này sẽ hỗ trợ phát triển đến cuối cùng cho các sản phẩm đa dạng về sản phẩm Artemisia tại châu Phi và châu Á.
Cấu trúc di truyền Plasmodium vivax & Plasmodium falciparum tại Bannu, Pakistan
Công nghiên nghiên cứu vừa được đăng tải trên tạp chí Malaria Journal 2010, 9:112doi:10.1186/1475-2875-9-112 do nhóm tác giả Lubna Khatoon, Frederick N Baliraine, Mariangela Bonizzoni, Salman A Malik và Guiyun Yan tiến hành cho biết Plasmodium vivax và Plasmodium falciparum là các tác nhân gây bệnh sốt rét chính. Trong khi kiến thức về cấu trúc di truyền của ký sinh trùng sốt rét (KSTSR). Rất có ích để hiểu được sự tiến hóa cũng như độc lực của KSTSR, thiết kế nên các thuốc và vaccine phòng bệnh sốt rét có ý nghĩa tác động vào công tác phòng chống sốt rét, chỉ có rất ít thông tin về đa dạng di truyền của KSTSR tại Pakistan. Nghiên cứu này nhằm làm rõ cấu trúc di truyền của P. vivax và P. falciparum trong một vùng mà chưa được nghiên cứu thấu đáo.
Tính đa dạng về di truyền của quần thể P. vivax và P. falciparum từ huyện có lưu hành sốt rét Bannu, Pakistan được đánh giá qua phân tích các gen protein bề mặt của merozoite (msp) bằng kỹ thuật PCR-RFLP. Đặc biệt, các gen Pvmsp -3alpha và Pvmsp-3beta của P. vivax và gen Pfmsp-1 và Pfmsp - 2 của P. falciparum. Kết quả cho thấy trên P. vivax, phân tích gen Pvmsp-3alpha và Pvmsp-3beta cho thấy sư khác biệt ở mức độ cao giữa các locus này. 4 nhóm alen khác biệt: A (1.9 kb), B (1.5 kb), C (1.2 kb), D (0.3 kb) được phát hiện đối với gen Pvmsp-3alpha, type A chiếm chủ yếu (82%). Ngược lại, khuyêch đại P. vivax msp - 3beta locus có 2 nhóm alen khác: A (1.7-2.2 kb, 62%) và B (1.4-1.5 kb, 33%), với 5% nhiễm phối hợp dòng (mixed-strain). Phân tích giới hạn Pvmsp-3alpha và Pvmsp-3beta lần lượt có 12 và 8 alen phân biệt với tỷ lệ kiểu hình phối hợp là 20%. Đối với P. falciparum, tất cả 3 kiểu hình được biết của Pfmsp-1 và 2 kiểu hình của Pfmsp-2 cũng được phân tích, với MAD20 xảy ra trong 67% và 3D7/IC trong 65% của các phân lập này. Toàn bộ 24% mẫu P. falciparum biểu hiện nhiễm phối hợp dòng. Nghiên cứu này chỉ ra rằng cả quần thể P. vivax và P. falciparum tại Pakistan đều đang dạng hóa về mặt hình thể.
Nghiên cứu sự thay đổi thông số nước tiểu, huyết thanh, chất chuyển hóa trong não cho thấy biểu hiện diễn tiến bệnh sốt rét.
Nhóm tác giả Angika Basant, Mayuri Rege, Shobhona Sharma, Haripalsingh M Sonawat đã đăng tải đăng trên tạp chí Malaria Journal 2010, 9:110doi:10.1186/1475-2875-9-110 công trình nghiên cứu về sự thay đỏi các chất chuyển hóa trong cơ thể vật chủ đáp ứng với sốt rét nhiễm Plasmodium spp đóng một vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh sốt rét. Sự thay đổi trong chuyển hóa giữa các con chuột cái và đực nhiễm Plasmodium berghei ANKA đã được báo cáo ở đây. Hình ảnh phổ 1H NMR của nước tiểu, huyết thanh và chất tách chiết từ não chuột được phân tích qua diễn tiến bệnh sử dụng máy phân tích Principle Component Analysis và Orthogonal Partial Least Square Discriminant Analysis.
Phân tích toàn bộ các thay đổi trong nước tiểu trong suốt diễn tiến bệnh cho thấy trên con cái có sự chuyển đổi sớm hơn kể từ sau nhiễm so với con đực. Ngược lại , liên quan hồ sơ huyết thanh của chuột cái vẫn không thay đổi trong các giai đoạn sớm sau nhiễm; ngược lại, trên chuột đực thì thay đổi. Các chất chuyển hóa từ não không có thay đổi trên cả 2 giới. Trong giai đoạn muộn của nhiễm, nước tiểu, huyết thanh và chất não cả 2 giới đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Phân tích các chất chuyển hóa riền lẽ chỉ ra tăng nghiêm trọng thành phần lactate, alanine, lysine, kynurenic acid, quinolinic acid trong huyết thanh cả chuột đực và cái ở giai đoạn này. Các thay đổi sớm trong nước tiểu ở con cái đáng kể hơn do tăng thành phần ureidopropionate, thấp hơn với carnitine và tăng asparagine và dimethylglycine thoáng qua. Một số chất chuyển hóa khi phân tích riền lẻ trong huyết thanh và chất não biểu hiện thay đổi đáng kể ở pha sớm, chủ yếu là trên chuột cái. Nồng độ Asparagine và dimethylglycine giảm và tăng quinolinic acid trong huyết thanh ở các con chuột cái. Trong chất não con cái, tăng sớm lactate, alanine, glycerol, kynurenic acid, ureidopropionate, 2-hydroxy-2-methylbutyrate.
Các kết quả này chỉ ra rằng nhiễm trùng P. berghei dẫn đến suy giảm chất chuyển hóa glycolysis, lipid, chuyển hóa tryptophan và giáng hóa uracil. Đặc điểm của giai đoạn sớm có thể tiên lượng bệnh và quản lý bệnh tốt hơn. Ngoài ra, sự khác biệt trên giới tính cho thấy đáp ứng khác biệt và là cơ chế sinh bệnh khác nhau của sốt rét.
Hiệu lực thuốc sốt rét Dihydroartemisinin-piperaquine trong điều trị sốt rét P. vivax
Nhóm tác giả nghiên cứu gồm Ghulam Rahim Awab, Sasithon Pukrittayakamee, Mallika Imwong, Arjen M Dondorp, Charles J Woodrow, Sue Jean Lee, Nicholas PJ Day, Pratap Singhasivanon, Nicholas J Whitevà Faizullah Kaker cho biết Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị sốt rét của Afghanistan trong điều trị sốt rét do P. vivax vẫn là chlorquine và tại quốc gia này thì P.vivax cũng là gánh nặng sốt rét không riêng gì so với P.falciparum. Kháng thuốc chloroquine do P. vivax hiện đang nổi lên tại châu Á. Trong khi các nghiên cứu tại Afghanistan không dánh giá chi tiết.
Từ tháng 7.2007 đến 2.2009, một nghiên cứu mở, ngẫu nhiên có chứng chloroquine và Dihydroartemisinin-piperaquine trên các bệnh nhân tuổi từ 3 tháng trở lên có nhiễm đơn thuần P. vivax được tiến hành nghiên cứu, thuốc primaquine không chỉ định. Các đối tượng nghiên cứu được theo dõi hàng ngày từ D0-D3 và mỗi tuần một lần cho đến ngày 56. Đánh giá các chỉ số thất bại ký sinh trùng vào ngày thứ 56 kể từ sau ddieuf trị với giả thuyết thuốc dihydroartemisinin-piperaquine là không thua kém so với chloroquine (khác biệt Delta = 5% trong tỷ lệ thất bại).
Trong số 2.182 đối tượng có nhiễm P. vivax, 536 người đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu. Tỷ lệ chữa khỏi ngày D28 là 100% cả 2 nhóm điều trị. Sạch KSTSR nhanh hơn ở nhóm DHA-PP so với chloroquine. Vào ngày 56, không thấy tái nhiễm trong nhóm chloroquine (8.9%, 95% CI 6.0-13.1%) hơn nhóm DHA-PP (2.8%, 95% CI 1.4-5.8%), một sự khác biệt trong tỷ lệ tái phát tích lũy 6.1% (2-sided 90%CI +2.6 to +9.7%).
Test log-rank test so với đường cong sóng sót xác định dihydroartemisinin-piperaquine > chloroquine (p = 0.003). phân tích đa biến cho thấy nồng độ Hb ban đầu thấp cũng không liên quan đến tái phát. Cả 2 phác đồ đều dung nạp tốt và không có tác dụng phụ nghiêm trọng. Chloroquine vẫn là thuốc có hiệu lực trong điều trị sốt rét do P.vivax tại Afghanistan. dihydroartemisinin-piperaquine cung cấp các lợi ích dự phòng sau điều trị, giảm tỷ lệ tái phát từ 4-8 tuần sau điều trị.
Có nên sử dụng các thuốc khác nhau điều trị bệnh nhân khác nhau xem như hướng tố nhất đánh bại sốt rét?
Theo thông tin được đăng tải vào ngày 6 tháng 9 năm 2008 tại Washington cho biết: các nhà khoa học đề nghị cho rằng hướng tốt nhất để điều trị sốt rét là tránh dùng cùng một loại thuốc cho tất cả mọi người bệnh nhân mắc sốt rét-đây có thể là lựa chọn tối ưu nhất cho các phác đồ điều trị ưu tiên. Với sự trợ giúp của một mô hình máy tính, một nhóm gồm các nhà nghiên cứu tại đại học Princeton, Mỹ đã tìm thấy nhiều quốc gia trên khắp thế giới đang có nhiều lỗ hỗng trong khuyến cáo điều trị sốt rét.
Mặc dù, hiện tại nhiều loại thuốc sốt rét có sẵn tại các quốc gia, đang được khuyến cáo sử dụng và nhiều loại thuốc được cho phép dùng lặp lại trên nhiều bệnh nhân khác nhau. Trưởng nhóm nghiên cứu, Maciej Boni cho rằng các quóc gia có thể giảm tỷ lệ tử vong và khắc phục được tình trạng kháng thuốc sốt rét nếu một lượng lớn thuốc sốt rét khác nhau được phân bố đến các bệnh nhân. Tiếp cận mới này được xem như một hướng đi sử dụng lựa chọn ưu tiên đa thuốc (MFT), có thể đảm bảo sử dụng các chi phí thuốc khác nhau cùng bệnh nhân, vì thế bệnh nhân không chịu áp lực mua các thuốc rẻ nhất có sẵn.
Những gì chúng tôi phát hiện là sử dụng ưu tiên chọn lựa thuốc nhiều loại thuốc (MFT_multiple first-line therapies) là hướng tốt nhất để tránh thất bại điều trị và trì hoãn phát triển kháng thuốc càng lâu càng tốt nếu có thể, Boni phát biểu như thế. Gần đây, tác giả này liên kết với cán bộ nghiên cứu của Đơn vị nghiên cứu lâm sàng của đại học Oxford tại thành phố Hồ Chí Minh (Oxford University Clinical Research Unit). Boni, một nhà toán học và một nhà sinh học tiến hóa, cùng cộng tác và đồng tác giả với Ramanan Laxminarayan và David Smith, thiết kế mô hình máy tính với các dữ liệu đầu vào dựa trên hơn 100 năm qua về lĩnh vực nghiên cứu sốt rét. Họ đề xuất 12 hướng điều trị sốt rét trong số các bệnh nhân nhiễm sốt rét khác nhau theo liệu pháp các thuốc ưu tiên nhưng đa kháng thuốc.
Phát hiện loài KSTSR mới Plasmodium gaboni trên tinh tinh giống phiên bản gây chết ở người
Theo tác giả Donald G. Mcneil Jr cho biết trên tạp chí y học có tiếng PLoS Pathogens vào năm 2009 vừa qua rằng các nhà nghiên cứu ở Gabon và Pháp đã khám phá ra một loài ký sinh trùng mới, sống trên loài tinh tinh nhưng có quan hệ gần gũi với loài ký sinh trùng sốt rét gây tử vong ở người. P. falciparum là một loại ký sinh trùng có độc lực cao đối với con người và đã gay ra hàng triệu ca tử vong trên thế giới. Năm 2002, nhờ thành công của việc giải trình tự bộ gen của P. falciparum đã đưa đến niềm hy vọng mới trong việc chống lại căn bệnh sốt rét chết người này và cũng là mở ra cơ hội nghiên cứu thêm nhiều thuốc sốt rét mới.
Loài ký sinh trùng này có tên là Plasmodium gaboni, có quan hệ gần với loài Plasmodium falciparum- loài ký sinh trùng mà đã gây cho hơn 1 triệu ca tử vong mỗi năm trên toàn cầu, hầu hết trong số chúng là trẻ em châu Phi.Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu từ Viện Nghiên cứu Phát triển ở Montpellier, Pháp và Trung tâm Nghiên cứu y học quốc tế ở Franceville, Gabon, đã lấy máu từ 17 con tinh tinh bị bắt được do các thợ săn của Gabon; 2 trong số đó có ký sinh trùng mới. Được biết, tại Trung Phi, các con tinh tinh còn nhỏ có thể được nuôi như những thú cưng.
Chỉ có một loài khác tương tự với P. falciparum, gọi là Plasmodium reichenowi, đã được tìm thấy trên khỉ không đuôi, vì thế khám phá này sẽ giúp các chuyên gia nghiên cứu sản phẩm DNA và làm thế nào sốt rét có liên quan đến các con khỉ không đuôi, con người và tổ tiên chung của chúng.Nhưng các tác giả nói rằng loài này nếu truyền sang người sẽ phải rất thận trọng vì 3 lý do: (1) Vì cả virus Ebola và virus gây suy giảm miễn dịch HIV/ AIDS cũng đã di chuyển từ khỉ không đuôi sang người; (2) Diễn biến bệnh sốt rét nói chung cũng như loài ký sinh trùng Plasmodium knowlesi, gần đây cũng đã tăng nhảy vọt từ khỉ đuôi ngắn sang người ở Đông Nam Á; (3) Loài tinh tinh sống trong các ngôi làng và được xem như là những thú cưng.
Tỷ lệ sốt rét bẩm sinh trong số trẻ sơ sinh chẩn đoán nghi ngờ nhiễm trùng máu tại Calabar, Nigeria
Nghiên cứu trên được nhóm tác giả A D Ekanem Mbbs, Mwacs M U Anah Mbbs, tiến hành tại khoa phụ sản, đại học khoa học y học Calabar, Nigeria và khoa nhi. Công trình đăng tải trên tạp chí Royal Society of Medicine Press, hồ sơ:10.1258/td.2007.005274. Họ đã nghiên cứu vè số ca sốt rét bẩm sinh trong số những ca sơ sinh bị nghi ngờ nhiễm trùng máu tại bệnh viện đại học Calabar, Nigeria. Tất cả đưa trẻ sinh ra nhập viện vào khoa sơ sinh với các đặc điểm lâm sàngcho thấy nhiễm trùng sẽ đưa vào nhóm nghiên cứu. Họ đã sàng lọc nhiễm khuẩn và sốt rét. Các bà mẹ của các trẻ sơ sinh có ký sinh trùng sốt rét trong máu được sàng lọc thêm về sốt rét và thiếu máu.
Tổng số 546 trẻ sơ sinh nhập viện vào khao sơ sinh và 202 (37%) có dấu hiệu lâm sàng nghĩ đến nhiễm trùng. Trong số này, 71 bé (35% trong số 202 hoặc 13% số trẻ nhập viện) có sốt rét bẩm sinh và 14 trường hợp là nhiễm trùng máu. 63 (88.7%) trẻ có KSTSR trong máu sinh ra từ các bà mẹ được chăm sóc trước sinh tại trung tâm chăm sóc của họ. 86% bà mẹ của 71 trẻ cũng óc KSTSR. Phần lớn (67%) của 71 bà mẹ là mang thai lần 2 và thấp hơn. 30 trẻ sơ sinh (42.3%) trong số đó bị ảnh hưởng thiếu máu và 5 (7%) trong số chúng đòi hỏi phải truyền máu.
Sốt rét bẩm sinh là bệnh lý ít gặp ở Calabar trong số trẻ nghi ngờ nhiễm trùng. Dường như điều trị dự phòng trước sinh bằng pyrimethamine (25 mg hằng tuần) hiện đang được sử dụng tại trung tâm điều trị này để bảo vệ bà mẹ và phôi thai. Các đứa trẻ sinh ra có đặc điểm lâm sàng nhiễm trùng nên sáng lọc thường quy tìm sốt rét.
Quinine: Mỹ bãi bỏ chấp nhận bán thuốc không kê đơn loại này
Quinine (QNN) dùng điều trị sốt rét, về quy tắc điều lệ thì thuốc này không còn cho phép bán không cần đơn nghĩa là không còn trong phạm vi OTC (over the counter). Tại Mỹ, Cơ quan Quản lý thực và dược phẩm (US.FDA) đã ban hành quy tắc cuối cùng hủy bỏ việc chấp nhận cho bán không cần đơn thầy thuốc. Các chế phẩm có QNN để điều trịhoặc dự phòng sốt rét, QNN không phải là thuốc chủ yếu được lựa chọn cho việc điều trị lựa chọn đa số các loại sốt rét.
Bệnh sốt rét đòi hỏi phải được cán bộ y tế chẩn đoán để vừa xác định đúng bệnh, vừa xác định điều trị tốt nhất bằng thuốc đặc hiệu. Việc theo dõi và điều chỉnh từ thầy thuốc là cần thiết và xác định là việc điều trị đã lựa chọn thuốc có hiệu lực với loại ký sinh trùng sốt rét đó. FDA cũng rất lo ngại nếu QNN vẫn còn bán theo dạng OTC với nhãn đề là điều trị hoặc dự phòng sốt rét thì một lượng lớn chế phẩm này sẽ được bán và dùng để điều trị hoặc dự phòng chứng chuột rút ban đêm ở chân. QNN đã bị loại ra khỏi thị trường vì chỉ định dùng như vậy không chứng minh được hiệu lực và đôi khi còn có tác dụng nghiêm trọng, có thể đe dọa tính mạng con người. Quy tắc cuối cùng là đòi hỏi là bất kỳ sản phẩm QNN nào bán theo OTC để điều trị phải có đơn thầy thuốc và có đơn xin chấp thuận lưu hành ngoài thị trường.