WHO thẩm định chất lượng một ACTs mới trong điều trị sốt rét 2012
Theo tin từ Kuala Lumpur, Malaysia và Mumbai, India và Geneva, Thụy sĩ ngày 3/10/2012 cho biết Cipla là một trong những công ty dược phẩm với số lượng thuốc generic đứng đầu, cùng với tổ chức nghiên cứu và phát triển phi lợi nhuận Thuốc & Dược phẩm cho các bệnh bị lãng quên (Drugs for Neglected Diseases initiative_DNDi) đã công bố việc thẩm định chất lượng của loại thuốc phối hợp liều lượng cố định giữa Artesunate (AS) và Mefloquine (MQ). Liệu pháp kết hợp ASMQ (FDCs) được sản xuất bởi tập đoàn Cipla là phác đồ điều trị kết hợp giữa artesunate-mefloquine đầu tiên được đánh giá chất lượng bởi WHO và khuyến khích sử dụng trong điều trị sốt rét.
Những hình ảnh của buổi họp báo ngày 3 tháng 10 năm 2012 tại Kuala Lumpur, Malaysia, với sự tham gia của Bộ Trưởng Bộ Y tế Malaysia về việc công bố phác đồ điều trị kết hợp mới ASMQ FDC đến báo chí.. Liệu pháp kết hợp với liều lượng cố định Artesunate-Mefloquine (Artesunate-Mefloquine Fixed-Dose Combination_ASMQ FDC) sẽ được giới thiệu đến các nước châu Á.
TS. Jaideep Gogtay, Giám đốc công ty dược phẩm Cipla phát biểu “việc công bố này là sự công nhận liệu pháp kết hợp ASMQ FDC đã thông qua những tiêu chuẩn chất lượng cao của WHO và chúng tôi muốn hướng liệu pháp điều trị này có thể sử dụng rộng rãi tại các nước châu Á”. Ông Bernard Pecoul, giám đốc điều hành tổ chức DNDi nói rằng tính sẵn có của ASMQ FDC sẽ có tác động trực tiếp đến các bệnh nhân, đặc biệt là khu vực châu Á. Nó giải quyết được một nhu cầu sức khỏe cộng đồng quan trọng trong khu vực khi phát minh phác đồ điều trị sốt rét mới để ngăn chặn căn bệnh này.
Liệu pháp thuốc kết hợp điều trị sốt rét của AS+MQ là một trong 5 phác đồ điều trị kết hợp dựa trên gốc artemisinin (ACTs) được khuyên dùng hiện nay bởi WHO (WHO., 2010) trong điều trị sốt rét do P. falciparum thể thông thường và là liệu pháp điều trị ưu tiên tại một số quốc gia Đông Nam Á có lưu hành sốt rét. AS+MQ FDC được đăng ký sử dụng tại Ấn Độ vào năm 2011 và tại Malaysia vào đầu năm 2012. Tại Ấn Độ, khoảng 18.000 bệnh nhân ở độ tuổi trưởng thành được điều trị bằng phác đồ này. Phác đồ điều trị kết hợp AS+MQ FDC được phát triển đầu tiên bởi tổ chức DNDi và công ty dược phẩm thuộc sở hữu nhà nước Farmanguinhos/Fiocruz của Brazil và được đăng ký sử dụng tại Brazil vào năm 2008. Sau đó, việc chuyển giao kỹ thuật giữa Farmanguinhos và tập đoàn dược phẩm Cipla đã thành công vào năm 2010 để thuận tiện áp dụng phương pháp điều trị bằng AS+MQ FDC tại châu Á. Chất lượng hiệu quả của phác đồ mới này là một bước ngoặc chính, điều này cho thấy rằng AS+MQ FDC đã đạt các tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn và hiệu quả.
Hơn nữa phương pháp này dễ dàng để sử dụng (liều dùng duy nhất hàng ngày 1 hoặc 2 viên trong 3 ngày), AS+MQ FDC sẽ tăng sự hài lòng của bệnh nhân và góp phần giảm nguy cơ phát triển tình trạng kháng thuốc và phải bảo đảm 2 loại thuốc này được kết hợp với nhau và tỉ lệ thành phần phù hợp (4 dạng điều chế dựa trên tuổi/trọng lượng). Bằng chứng khoa học ủng hộ sự phát triển của phác đồ điều trị thuốc phối hợp AS+MQ FDC này bắt nguồn từ việc sử dụng kết hợp của chúng trước đây và đã được chứng minh bằng các nghiên cứu lâm sàng hơn 11.000 bệnh nhân. Năm 2009, một nghiên cứu tại Myanmar so sánh hiệu quả của 4 loại kết hợp liều theo liều lượng của ACTs, sau đó được WHO khuyến khích sử dụng và cho thấy rằng AS+MQ FDC có tỉ lệ điều trị chữa khỏi cao nhất và tỉ lệ người mang giao bào sau điều trị thấp nhất, giúp cho sự ngăn chặn tình trạng tái phát sốt rét do P. falciparum một cách tốt nhất và là phương pháp ngăn chặn hiệu quả nhất của giai đoạn vô tính trong máu của sốt rét P. vivax.
Phối hợp thuốc AS+MQ FDC được sản xuất tại công ty dược phẩm Cipla tại Paralganga, Ấn Độ và được cho phép bởi WHO tại Geneva, Thụy sĩ và Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (US FDA), Cơ quan quản lý dược phẩm Anh Quốc (MHRA-UK) và các cơ quan chức năng khác. Việc đánh giá này chứng tỏ thuốc điều trị AS+MQ FDC đủ điều kiện để đấu thầu nhận kinh phí hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế như Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp quốc (UNICEF) và Quỹ Toàn cầu về phòng chống AIDS, lao và sốt rét.
Liên quan đến đơn vị WHO PQP
WHO PQP là chương trình đảm bảo chất lượng dược phẩm toàn cầu duy nhất. Ban đầu được thành lập với trọng tâm chính là chú trọng và đánh giá về mặt chất lượng các loại thuốc điều trị HIV/AIDS, lao và sốt rét, WHO PQP hiện tại còn cung cấp dịch vụ thẩm định cho các loại thuốc và sản phẩm cho sức khỏe sinh sản và cung cấp chất kẽm. Từ năm 2001, trên 240 loại thuốc đã được thẩm định chất lượng. Đội ngũ nhân viên WHO cùng với các chuyên gia từ các cơ quan giám định quốc gia trên toàn thế giới xét duyệt cẩn thận các hồ sơ được đệ trình. Các thanh tra được đưa đến giám sát nơi mà các sản phẩm dược được đóng gói và các thành phần dược hoạt tính được sản xuất nhằm xác minh chúng có tuân thủ kỹ thuật sản xuất chất lượng của WHO. Danh sách các loại thuốc đã được thẩm định chất lượng đã trở thành công cụ cần thiết cho các đại lý cung ứng trên toàn thế giới, nơi mà mỗi năm việc mua bán với số lượng lớn thuốc có giá trị hàng tỷ đô-la Mỹ để phân phối tại các nước có đầu vào thuốc khan hiếm.
Về ASMQ FDC
Sự kết hợp giữa AS và MQ, hai loại thuốc đặc hiệu đã tồn tại từ lâu trong điều trị sốt rét do P. falciparum thể thông thường đã chứng minh hiệu lực điều trị của nó sau 20 năm sử dụng. Tuy nhiên sự kết hợp liều không cố định đặt ra các vấn đề “thích ứng” của bệnh nhân và nguy cơ kháng thuốc tiềm tàng. Nhằm giải quyết tình trạng này, AS+MQ FDC đã được phát triển dựa trên Hiệp hội nghiên cứu liệu pháp kết hợp Artesunate với liều lượng cố định (Fixed-Dose Artesunate-Based Combination Therapies _FACT) thành lập bởi DNDi và Chương Trình Nghiên cứu và đào tạo đặc biệt về bệnh nhiệt đới của Tổ chức Y tế thế giới (WHO/TDR) vào năm 2002.
Thông qua sự hợp tác có sáng kiến được hỗ trợ và tạo điều kiện bởi DNDi vào năm 2008, Cipla ký kết thỏa thuận với công ty dược phẩm Farmanguinhos/Fiocruz và sẽ sản xuất AS+MQ FDC và đảm bảo nó sẽ được lưu hành trên thị trường với mức giá chấp nhận được. AS+MQ FDC đã được đăng ký tại Brasil vào năm 2008, tại Ấn Độ năm 2011 và tại Malaysia vào đầu năm 2012. Việc sử dụng thuốc rất đơn giản, với liều lượng dùng một lần/1 ngày uống 1 hoặc 2 viên trong vòng 3 ngày trở lên cho bệnh nhân mọi lứa tuổi (từ trẻ em 6 tháng tuổi đến người lớn) và có thời hạn sử dụng 2 năm trong điều kiện nhiệt đới.
Về DNDi
Tổ chức sáng kiến Thuốc & Dược phẩm cho các bệnh bị lãng quên (DNDi) là một tổ chức nghiên cứu và phát triển phi lợi nhuận hoạt động với mục đích đưa ra các phương pháp điều trị mới đối với các bệnh bị lãng quên, ví dụ như chứng bệnh ngủ ở châu Phi (bệnh do ký sinh trùng Trypanosoma ở châu Phi), bệnh Chagas, bệnh Leishmaniasis, bệnh giun chỉ bạch huyết, sốt rét và bệnh HIV ở trẻ sơ sinh.
Thành lập vào năm 2003, DNDi đã nghiên cứu thành công 6 phương pháp điều trị: 2 liệu pháp kết hợp với liều lượng cố định điều trị sốt rét (AS+AQ và AS+MQ), liệu pháp kết hợp nifurtimox-eflornithine (NECT) cho bệnh ngủ giai đoạn muộn, liệu pháp kết hợp natristibogluconate và paromomycin (SSG & PM) cho bệnh Leishmaniasis nội tạng tại châu Phi, một tập hợp các liệu pháp kết hợp cho Leishmaniasis nội tạng ở châu Á và liều benznidazole cho trẻ em đối với bệnh Chagas.
DNDi đã giúp đỡ thành lập 3 trạm nghiên cứu lâm sàng: trạm nghiên cứu bệnh Leishmaniasis Đông Phi (LEAP) tại Kenya, Ethiopia, Sudan và Uganda; đơn vị nghiên cứu HAT đặt trụ sở tại Châu phi nghiên cứu bệnh ngủ và đơn vị Nghiên cứu lâm sàng bệnh Chagas tại châu Mỹ latin.
Về Cipla
Cipla đặt nền tảng cho sự trở lại của nền công nghiệp dược phẩm Ấn Độ hồi năm 1935 với mong muốn giúp cho Ấn Độ tự lực trong nền y tế. Trong những năm qua, Cipla đã nổi lên như một trong những cái tên được đánh giá cao nhất không chỉ ở Ấn Độ mà còn trên toàn thế giới. Trung tâm nghiên cứu và phát triển R & D của Cipla đã đưa ra nhiều sáng kiến đầu tiên cho quốc gia và thế giới. Trong đó có thể kể tới thuốc kết hợp điều trị bệnh AIDS ít hơn 1 đô-la/1 ngày. Với trên 34 cơ sở sản xuất trên cả nước, Cipla sản xuất trên 2.000 sản phẩm trong 65 liệu pháp điều trị.
Với doanh thu 1.4 tỷ đô-la Mỹ, Cipla phục vụ các bác sĩ và bệnh nhân trên 170 quốc gia. Nó đã đạt được tiếng tăm về duy trì tiêu chuẩn toàn cầu thông qua các sản phẩm và dịch vụ. Cipla tiếp tục giúp đỡ, cải thiện và cứu hàng triệu người với các loại thuốc chất lượng cao và các thiết bị tiên tiến.
Thuốc điều trị sốt rét của công ty dược phẩm Cipla hướng tới các quốc gia châu Á nhận được sự chấp thuận của WHO
Theo tin từ Geneva, Thụy Sĩ ngày 3 tháng 10 năm 2012 và theo hãng tin Reuters cho biết thuốc điều trị sốt rét được sản xuất bởi công ty dược phẩm Ấn Độ-Cipla được thẩm định chất lượng bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đây là một bước ngoặc quan trọng hướng tới việc sử dụng tại các nước châu Á, nơi mà hàng triệu người mắc căn bệnh này do muỗi truyền hàng năm.
Cipla và tổ chức Sáng kiến thuốc và dược phẩm cho các bệnh lãng quên (DNDi) đã phát biểu tại cuộc họp rằng loại thuốc này đã được sử dụng để điều trị cho 18.000 bệnh nhân ở độ tuổi trưởng thành tại Ấn Độ, dự định đây sẽ là phương pháp điều trị trước tiên tại một số nước Đông Nam Á. “Nó đã giải quyết được nhu cầu sức khỏe cộng động quan trọng trong khu vực khi phát minh phác đồ điều trị sốt rét mới để ngăn chặn căn bệnh này”, lời phát biểu của ông Benard Pecoul, Giám đốc điều hành của DNDi, một tổ chức nghiên cứu và phát triển phi lợi nhuận.
Có khoảng 25 triệu ca bệnh, căn bệnh mà có thể gây tử vong tại khu vực Tây Thái Bình Dương và vùng nam châu Á mỗi năm, phát ngôn viên của tổ chức DNDi tại Geneva đã nói. Việc thông qua thẩm định chất lượng có nghĩa là đã đạt được các tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn và hiệu quả của WHO và có thể được phép đâu thầu nhằm kêu gọi các tổ chức viện trợ để mua số lượng lớn, bao gồm Quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) và Quỹ Toàn cầu cho phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét. Sự kết hợp AS và MQ là một trong 5 liệu pháp kết hợp artemisinin (ACTs) được khuyến khích sử dụng bởi WHO trong điều trị sốt rét P.falciparum thể thông thường. Đây là phương pháp đầu tiên trong 5 phương pháp được đánh giá chất lượng khi kết lợp theo liều lượng cố định của 2 loại.
Hiệu quả hơn phác đồ điều trị đơn thuần là nó tăng sự hài lòng của bệnh nhân và giúp giảm nguy cơ kháng thuốc đang ngày càng phát triển. Phác đồ điều trị kết hợp artesunate-mefloquine với liều lượng cố định được phát triển bởi tổ chức DNDi và công ty dược phẩm thuộc nhà nước tại Brazil-Farmanguinhoz Fiocruz năm 2008. Hai năm sau, công ty dược phẩm Brazil đã chuyển giao công nghệ cho Cipla, công ty dược phẩm lớn thứ 5 tại Ấn Độ để sử dụng rộng rãi tại châu Á.
Cipla đánh dấu cột mốc quan trọng trong năm 2001 với sản xuất ra thuốc diệt retrovirrus để điều trị bệnh AIDS tại châu Phi với dưới 1 đôla/ngày.
DDT trong sữa mẹ có liên quan tới biến dạng cơ quan sinh dục ở thiếu niên nam
Theo tin từ Linkoping, Thụy Điển, ngày 4 tháng 9 năm 2012 – Các nahf khoa học đã đo được các nồng độ thuốc trừ sâu DDT cao nhất từ trước tới nay trong sữa của những bà mẹ sống trong những ngôi làng có dịch sốt rét ở quốc gia Nam Phi. Các nhà nghiên cứu từ Đại Học Linköping ở Thụy Điển cho hay các mức độ DDT họ quan sát được trong ba ngôi làng đã vượt ngoài giới hạn cho phép của Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
Phơi nhiễm với DDT (dichloro-diphenyl-trichloroethane)- một loại hóa chất chlor hữu cơ diệt côn trùng, có thể gây bệnh ung thư vú, tiểu đường, suy giảm chất lượng tinh trùng, sẩy thai tự phát và các rối loạn thần kinh ở trẻ nhỏ và giờ đây thêm biến chứng là biến dạng cơ quan sinh dục ở các bé trai. Tại khu vực tiến hành các nghiên cứu đo lường, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng tình trạng dị dạng cơ quan sinh dục ở bé trai đã trở nên vô cùng phổ biến đối với những nơi phun DDT so với những vùng không sử dụng DDT.
Tác giả nghiên cứu Henrik Kylin - nhà hóa học môi trường và giáo sư thuộc Khoa Nghiên cứu Nước và Môi trường của trường Đại học Linköping nghiên cứu cho biết: “DDT có chứa các chất giống estrogen (hormone sinh dục nữ). Chúng ta biết rằng các sản phẩm giáng hóa từ DDT gây cản trở sự phát triển sinh dục ở nam giới”.
DDT đã được sử dụng trong nhiều năm qua ở Nam Phi và những nơi khác trên thế giới. Nó thường được phun trong nhà để diệt muỗi mang mầm bệnh sốt rét. “Đối với chúng ta thì việc phun DDT ở trong nhà người dân nghe có vẻ vô lý, nhưng đó lại là một trong những tác nhân chống lại bệnh sốt rét hiệu quả nhất,” GS. Kylin cho biết và chỉ bẳng cách phun DDT lên những con muỗi trưởng thành xung quanh chúng ta, nguy cơ phát triển muỗi sẽ giảm xuống. GS. Kylin cùng với các bác sĩ và các nhà nghiên cứu Nam Phi đang tiến hành một dự án lập bản đồ các tác động của DDT lên dân cư.
Ông nói: “Chúng ta đã biết nhiều về việc DDT ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên và động vật như thế nào, nhưng những tác động của nó đến sức khỏe con người vẫn chưa được nghiên cứu kỹ, đặc biệt là những ảnh hưởng lâu dài liên quan đến DDT. Dựa trên lý lẽ cho rằng sốt rét còn nguy hiểm hơn DDT, cho nên mọi người chấp nhận chương trình xử lý bằng phun xịt DDT này. Mục đích dự án của chúng tôi là nghiên cứu các tác dụng phụ của DDT, từ đó xây dựng một nền tảng tốt hơn để đưa ra các quyết định”.
Bản đồ Nam Phi thể hiện những ngôi làng được nghiên cứu bằng các chấm đen (Ảnh: trường Đại Học Linköping )
Trong một bài báo mới được xuất bản trong tạp chí “Environmental Pollution” (Ô nhiễm môi trường), Kylin và ba nhà nghiên cứu khác báo cáo kết quả nghiên cứu về nồng độ DDT trong sữa của các bà mẹ cho con bú tại bốn ngôi làng, trong đó ba ngôi làng đang có dịch sốt rét hoành hành. Ngôi làng thứ tư được xem như đối chứng. Cả bốn ngôi làng đếu nằm ở vùng viễn đông của Nam Phi nơi có sốt rét lưu hành.
Các nhà khoa học mô tả: “Chúng tôi tiến hành điều tra sự hiện diện và nồng độ DDT ở 163 mẫu sữa mẹ từ bốn ngôi làng Nam Phi, ba trong số đó phòng chống sốt rét bằng phương pháp phun DDT trong nhà”. DDT đã được sử dụng liên tục ở ba ngôi làng trong khoảng hơn 60 năm qua. Giải pháp phun xử lý thực hiện vài lần mỗi năm và do một đội ngũ nhân viên đã được đào tạo và trang bị đầy đủ kỹ năng tiến hành.
Theo các nhà nghiên cứu, nồng độ DDT trong sữa mẹ đã tỏ ra “cao không thể chấp nhận được” tại những ngôi làng được phun DDT. Mức độ DDT được tìm thấy cao hơn 100 lần so với liều lượng hàng ngày tối đa mà Tổ chức Y tế thế giới quy định.
Chỉ có một trường hợp, họ đã đo được mức độ DDT trong sữa mẹ cao nhất từ trước đến nay, cao hơn gấp 300 lần mức độ cho phép trong sữa bò. Điều bất ngờ mà các nhà nghiên cứu đã quan sát được đó là có sự khác biệt lớn giữa các ngôi làng được phun. Mặc dù trong các điều kiện gần như tương đồng, mức độ DDT đo được trong một ngôi làng này lại cao gấp đôi so với một trong những ngôi làng được phun khác.
Các nhà nghiên cứu cho biết một loạt các nhân tố có thể gây ra tác động khác nhau ở đây, ví dụ như là những tiến trình liên quan đến công tác xử lý, điều kiện của những bức tường, sự thông gió, hành vi và thói quen vệ sinh của người dân.
Việc xác định những nhân tố này sẽ góp phần làm giảm khả năng phơi nhiễm, từ đó giảm nguy cơ cho cả các bà mẹ và trẻ em. Kylin cho biết: “Thật không may là những đứa trẻ nhỏ tuổi nhất cũng bị phơi nhiễm đối với DDT ở mức cao nhất; chúng cũng rất nhạy với tác động hóa học”.
Dựa trên các mẫu sữa mẹ, người ta ước tính rằng các bé trai tiêu hóa phải DDT phần nào nhiều hơn so với các bé gái, ngoại trừ các bé sinh đầu lòng/ con so. Điều này có thể phụ thuộc vào hiện tượng đó là nếu bé trai được cho bú thì hàm lượng chất béo trong sữa mẹ cao hơn. Tuy nhiên Kylin cũng giải thích, việc các em bé sinh đầu lòng bị phơi nhiễm ở mức cao nhất lại phụ thuộc vào mức độ tích trữ DDT cao hơn trong người bà mẹ khi sinh lần đầu tiên.
Sốt rét là một căn bệnh có thể ngăn ngừa và chữa trị gây ra bới ký sinh trùng, lây truyền sang người do vết đốt của muỗi cái Anopheles bị nhiễm bệnh. Ước tính sốt rét gây ra khoảng từ 117 đến 241 triệu ca mắc và trên 700.000 ca tử vong mỗi năm.
Có tới 90% số các ca nhiễm và tử vong do sốt rét này là các trẻ em dưới 5 tuổi sống ở vùng cận sa mạc Sahara châu Phi. Kylin cho biết ông tin rằng nghiên cứu có thể tiến xa hơn nữa trong việc tìm ra các chất thay thế DDT nếu sốt rét lan tới các quốc gia giàu có.
Phun tồn lưu trong nhà là phương pháp phun hữu hiệu, kịp thời lên trên các bức tường bên trong ngôi nhà hoặc chỗ ở. Nó được chỉ định để ngăn chặn sự lan truyền của sốt rét bằng cách diệt những con muỗi cái trưởng thành khi chúng bay vào trong nhà và trú đậu trên tường sau khi đốt mồi, trước khi chúng có thể truyền bệnh cho người khác.
Các nhà nghiên cứu Nam Phi trong nghiên cứu này là Hindrik Bouwman - Trường Đại học Khoa học và Phát triển môi trường, Đại học Tây Bắc; Barbara Sereda từ Viện Nghiên cứu bảo vệ thực vật, Hội đồng Nghiên cứu Nông nghiệp, Pretoria và Riana Bornman từ Khoa tiết niệu, Đại học Pretoria.
Phương pháp mới sản xuất thuốc chống sốt rét
Phương pháp mới tăng hiệu quả chiết xuất acid artemisinin, hoạt chất chính trong thuốc chống sốt rét lên gấp 4 lần. Viện Max Planck (Đức) đã tìm ra cách mới chiết xuất acid artemisinin để tăng hiệu quả sản xuất thuốc chống sốt rét lên gấp 4 lần bình thường từ cây ngải tây ngọt (hay còn gọi là cây thanh cao hoa vàng). Thuốc sốt rét Artemisinin đang thông dụng hiện nay được chiết xuất từ ngải tây ngọt, một cây sinh sống chủ yếu ở Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng trước đây, các phương pháp chiết xuất thông thường từ các thành phần của cây này để lấy acid artemisinin sản xuất thuốc thường lãng phí khoảng 10 lần lượng acid artemisinin trong các bã cây.
Để tiết kiệm nguyên liệu, các nhà khoa học cũng từng dùng cách sử dụng ánh sáng cực tím để kích hoạt chuyển đổi acid artemisinin. Song cách này quá tốn kém và không hiệu quả. Đến nay, các nhà hóa học Đức đã tạo ra một máy bơm tất cả các thành phần cần thiết từ cây Thanh cao hoa vàng, thông qua một ống nhỏ, được bao bọc bởi một bóng đèn tia cực tím trong một quá trình liên tục khoảng 4,5 phút sẽ sản xuất được thuốc artemisinin.
Kỹ thuật này có thể chuyển đổi khoảng 40% acid artemisinin trong bã cây, cho phép khả năng sản xuất thuốc cao hơn gấp 4 lần so với trước đây. Các nhà khoa học dự định sẽ đưa máy này vào hoạt động chính thức trong vòng 6 tháng đến 1 năm nữa. Mỗi chiếc có trị giá 132.000 USD. Sử dụng loại máy này sẽ giảm chi phí và tăng hiệu quả sản xuất thuốc chống sốt rét.
Được biết, mỗi năm ở Châu Phí có khoảng 655.000 người chết vì sốt rét, chủ yếu là trẻ em dưới 5 tuổi. Nhưng chi phí để chữa bệnh lại quá cao so với những người nghèo, phải mất 10 USD cho mỗi liều thuốc artemisinin.
Thuốc sốt rét ngừa bệnh một cách hiệu quả tại châu Phi
Một cuộc nghiên cứu mới cho thấy việc phát rộng rãi thuốc chống bệnh sốt rét cho những trẻ em khỏe mạnh tại các quốc gia châu Phi có thể làm giảm một cách đáng kể con số những trường hợp mắc bệnh mới. Tổ chức trợ giúp y tế bác sĩ không biên giới nói đã phân phối không liên tục những liều thuốc chống bệnh sốt rét cho 175.000 trẻ em tại Mali và Chad. Kết quả là giảm bớt được 67% con số những trường hợp sốt rét đơn giản tại Mali và giảm đến 86% tại Chad. Tổ chức Bác sĩ không biên giới nói cũng có sự sút giảm đáng kể con số những trường hợp sốt rét nghiêm trọng.
Cuộc nghiên cứu được phát động vào tháng Bảy và sẽ tiếp tục qua tháng tới, thời gian truyền bệnh sốt rét cao. Trẻ em từ 3 tháng đến 5 tuổi được cho một liều thuốc chống sốt rét trong thời gian ba ngày, một tháng một đợt. Tổ chức Y tế Thế giới ước tính có khoảng 650.000 người chết vì bệnh sốt rét mỗi năm. Tổ chức này cũng nói 90% những trường hợp xảy ra tại Tiểu vùng Sahara châu Phi, phần lớn nạn nhân là trẻ em.