Đánh giá độ an toàn của thuốc Niclosamide, Pyrantel, Triclabendazole và Oxamniquine
Một điều tra tổng hợp dữ liệu được tiến hành gần đây do nhóm tác giả D. Ofori-Adjei, A.N.O. Dodoo, A. Appiah-Danquah và M. Couper thuộc Trung tâm Nghiên cứu điều trị và dược lâm sàng về y học nhiệt đới, Đại học y khoa Ghana và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tại Geneva, Thụy Sĩ tiến hành nghiên cứu đánh giá chi tiết về độ an toàn của một số thuốc điều trị bệnh giun sán đường ruột (pyrantel và niclosamide) và thuốc điều trị sán máng (antischistosomal)và thuốc điều trị sán lá (oxamniquine và triclabendazole). Công trình nghiên cứu được thực hiện và có tham khảo các tài liệu đã đăng tải cũng như nguồn tài liệu dược chính thống về các loại thuốc này, phối hợp với đánh giá các tác dụng ngoại ý báo cáo theo cơ sở dữ liệu của Trung tâm hợp tác giám sát thuốc quốc tế của WHO tại Thụy Điển. Các dữ liệu để cung cấp bằng chứng nhằm hỗ trợ cho tất cả các chỉ số an toàn trên các thuốc này hiện vẫn còn hạn hữu.
Trong khi nhiều thông báo liên quan đến nguy cơ gây cơn động kinh do thuốc oxamniquine,thì các mối quan tâm này lại không hề giảm dùng loại thuốcnày tại một vài quốc gia. Tất cả 4 thuốc dường như an toàn và dung nạp thuốc tốt, thậm chí khi có chiến dịch sử dụng để điều trị hàng loạt ở các quốc gia. Phần tổng kết về tính an toàn của các thuốc này đã chỉ ra oxamniquine, triclabendazole, niclosamide (hình bên) và pyrantel có cân nhắc đến việc xem xét lợi ích và nguy cơ khi dùng các thuốc này trên người.
Tuy nhiên, để tăng thêm bằng chứng xác đáng về vấn đè an toàn của các thuốc này thì nên có những bằng chứng xác thực dựa trên việc xây dựng một hệ thống dược cảnh giác (pharmacovigilance systems), đó là khuyến cáo của WHO, và cũng là những khuyến cáo không chỉ tại các quốc gia đó mà cả toàn cầu nên có, đặc biệt những nơi còn thiếu và yếu về mặt giám sát thuốc này. Cả 4 loại thuốc trên đều nằm trong danh mục thuốc thiết yếu của WHO (WHO Model List of Essential Medicines).
Nhóm tác giả Barduagni P, Hassanein Y, Hohamed M, Wakeel AE, Sayed ME, Hallaj Z, Curtale F vừa đăng tải trên tạp chí ký sinh trùng quốc tế Parasitol Res; 102(4): 631-3, 2008 và nằm trong bảng danh của y văn quốc tế cho biết thuốc Praziquantel vẫn có hiệu lực điều trị bệnh sán máng, nhưng hiện đang có dấu hiệu gia tăng tình trạng kháng thuốc này bởi vì tình hình sử dụng loại thuốc này quá rộng rãi và bừa bãi. Triclabendazole, một thuốc điều trị giun sán, rất hiệu quả chống lại các loài sán lá khác như sán lá phổi (Paragonimus spp.) và sán lá gan lớn (Fasciola spp.). Người ta cũng đã báo cáo thuốc hiệu quả trên in vitro và trên mô hình động vật thực nghiệm nhiễm sán máng Schistosoma mansoni.
Tuy nhiên, hiệu lực của các thuốc chống sán máng ở trên người vẫn chưa đươc đánh giá đầy đủ. Các đối tượng của nghiên cứu này được thử nghiệm lâm sàng đánh giá hiệu lực của triclabendazole với liều hiện đang dùng điều trị sán lá gan lớn ở người (10mg/kg thân trọng) để điều trị cho bênh nhân đồng nhiễm S. mansoni và Fasciola spp. Nghiên cứu trên được tiến hành tại Behera-một vùng lưu hành bệnh cao với cả hai loại ký sinh trùng này - do các nhân viên của Bộ Y tế và Dân số Ai Cập làm. 10 bệnh nhân (4 nam và 6 nữ, tuổi từ 8-58), bị nhiễm đồng thời sán lá gan và sán máng được đưa vào nghiên cứu, 6 tuần sau khi điều trị thì 7 bệnh nhân vẫn còn thải trứng sán mángS.mansoni, ngược lại không bệnh nhân nào có trứng sán lá gan Fasciola spp. Kết quả trên cho thấy ở liều thường dùng điều trị là 10mg/kg cân nặng đã không đủ hiệu quả để chống lại nhiễm sán máng đồng thời.
So sánh hiệu lực của thuốc Closantel và Triclabendazole chống lại Fasciola hepatica trên cừu ở mô hình nhiễm thực nghiệm
Các tác giả L Maes, O Vanparijs, H Lauwers, W Deckers đang công tác tại Khoa Nghiêncứu và thông tin lâm sàng thú y, Viện nghiên cứu Janssen, Beerse, Bỉ cho biết hiệu quả của thuốc closantel (liều dùng 10 mg/kg đường uống) và Triclabendazole (10 mg/kg đường uống) lên sự tái nhiễm của Fasciola hepatica đã được nghiên cứu trên mô hình cừu gây nhiễm sán thực nghiệm. Kết quả, thuốc đã làm sạch trứng trong phân trong vòng 11 tuần với thuốc Triclabendazole và 13 tuần với thuốc Closantel.
Khám nghiệm sau khi mổ các con vật nhóm chứng (không điều trị) cho thấy một lượng sán gồm 360 con với chỉ số trung bình theo diện tích bề mặt (+/- se) là 171 +/- 64.3 mm2, ngược lại lượng sán trên những con cừu được điều trị bằng closantel và triclabendazole ở 14 tuần sau điều trị lần lượt theo từng thuốc là 61 (giảm 83%) và 21 (giảm 94%). Diện tích bề mặt của sán trong nhóm dùng triclabendazole so với nhóm chứng (không điều trị) là (141 +/- 51.8 mm2), nhưng sán ở nhóm điều trị bằng closantel nhỏ hơn đáng kể (43.1 +/- 26.9 mm2).
Người ta kết luận rằng Closantel có một ý nghĩa về mặt dịch tễ học, so với Triclabendazole, mặc dù hiệu lực thuốc đó thấp hơn một ít khi dùng để điều trị giai đoạn sán chưa trưởng thành.
Thuốc điều trị giun sán mới Combinex® (Levamisole plus Triclabendazole) và Fasimec® Pour-On (Abamectin, Triclabendazole)
Thông tin sản phẩm này trên website sẵn có và cung cấp bởi công ty Novartis chuyên chămsóc sức khỏe cho động vật. Nhiều sản phẩ m thú y cũng được liệt kê ở đây, và nên nhớ rằng không phải tất cả các sản phẩm như thế đều có sẵn tại hấu hết quác quốc gia.
Và nên nhớ răng các sản phẩm dù thế nào, bạn cũng nên hỏi ý kiến của bác sĩ thú y để cho lời khuyên dùng hợp lý nhất, kể cả lời khuyên về nguy cơ cũng như lợi ích khi dùng thuốc một cách đầy đủ. Bởi lẽ nhièu loại động vật khác nhau, liều dùng và loại thuốc sẽ khác nhau rất nhiều, đó là một ví dụ.
Hiệu lực của phác đồ thuốc triclabendazole trên bệnh fascioloidiasis (Fascioloides magna) trên các con hươu đuôi trắng nhiễm tự nhiên
Nhóm gồm các nhà nghiên cứu Qureshi, TM Craig, DL Drawe, DS Davis đã đánh giá hiệu lực của thuốc Triclabendazole trong điều trị nhiễm trùng Fascioloides magna mắc phải tự nhiên trên các con dê đuôi trắng (Odocoileus virginianus). 20 con dê được đưa vào trại Welder Wildlife Refuge (Sinton, San Patricio County, Texas, Mỹ) và nhốt canh giữ trong một khu có diện tích 64 x 64 m. 10 con dê được cho dùng dung dịch dạng triclabendazole (5% suspension) đường uống liều dùng là 10 mg/kg và 10 con dê còn lại cho phác đồ placebo. 3 tuần sau khi uống thuốc, mang các con dê đem giết và kiểm tra ký sinh trùng. Lúc khám nghiệm 19 con dê đã bị nhiễm, tất cả mẫu F. magna từ các mô của nhóm dê được điều trị bằng Triclabendazole đã chếthoặc bị ảnh hưởngnghiêm trọng bởi thuốc như một chỉ điểm tốt, thuốc đã làm thay đổi kích thước, màu sắc, tính di động và cấu trúc của sán so với những con dê trong nhóm chứng.
Kết luận cho biết thuốc có hiệu quả 100% chống lại loài ký sinh trùng này. Phản ứng phụ trên nhóm dê dùng thuốc không được quan sát và ghi nhận.
Ảnh hưởng của thức ăn lên sinh khả dụng của thuốc Triclabendazole ở bệnh nhân sán lá gan lớn
Các kết quả nghiên cứu sơ bộ cho thấy sự hấp thu triclabendazole (TCBZ) cho uống sau bữa ăn, cho biết có sự ảnh hưởng của thức ăn lên một số đặc tính của dược động học (pharmacokinetics) của thuốc TCBZ các hoạt chất chuyển hóa sulphoxide (TCBZ-SO) và sulphone (TCBZ-SO2). Về phương pháp nghiên cứu, người ta chỉ định 2 liều đơn duy nhất (10 mg/kg) của TCBZ cho 20 bệnh nhân nhiễm sán lá gan lớn. 10 bệnh nhân cho thuốc uống sau khi đã cho số bệnh nhân đó ăn sáng với chế độ ăn thành phần năng lượng cao, rồi 48 giờ sau đó, sau một đêm nhịn đói. Số còn lại 10 bệnh nhân sẽ được uống liều đầu tiên trong tình trạng đói rồi sau đó dùng liều thứ 2 vào giờ thứ 48 sau khi ăn sáng. Một chế độ ăn sáng với khẩu phần năng lượng thấp sau khi cho uống thuốc lúc đói 2 giờ. Kết quả cho thấy khi so sánh với lúc nhịn đói cho thấy có sự tăng nồng động dưới đường cong AUC và nồng độ tối đa của thuốc Cmax sau khi ăn thức ăn vào (P < 0.0001 có ý nghĩa thống kê) là chỉ ra từ các giá trị TCBZ, TCBZ-SO và TCBZ-SO2. Giá trị trung bình của AUC đối với TCBZ (lúc đói: 1.55, lúc đã ăn: 5.72 μmol l−1 giờ), TCBZ-SO (lúc đói: 177, lúc đã ăn: 386 μmol l−1 giờ) và TCBZ-SO2 (lúc đói: 13.9, lúc đã ăn: 30.5 μmol l−1 giờ) chỉ ra một lượng lớn có sẵn tăng khi đã ăn và hoạt chất chuyển hóa sulphoxide không thay đổi theo. (tất cả các bệnh nhân đều được chữa khỏi vào cuối thời gian thử nghiemẹ ngoại trừ 1 người cần thêm liều điều trị thứ 2. Tính dung nạp trong điều trị trong số các bệnh nhân rất tốt. Việc chỉ định triclabendazole với thức ăn là một khuyến cáo để nâng cao sinh khả dụng trên tất cả bệnh nhân nhiễm sán lá gan lớn hoặc nhiễm sán lá phổi.
Triclabendazole và 2 chất chuyển hóa chính không đủ hiệu lực chống lại sán máng Schistosoma mansoni trên mô hình thực nghiệm ở chuột
Một nghiên cứu được thực hiện bởi Jennifer Keiser, Nadia Abou El Ela, Engy El Komy, Naglaa El lakkany, Tarek Diab, Jacques Chollet, Jürg Utzinger, Rashida Barakat đang làm việc tại Viện Nhiệt đới Basel Thụy Sĩ, Viện Y tế công cộng, đại học Alexandria, Ai Cập, Viện Nghiên cứusán máng Theodore, Giza, Ai Cập.
Một vài nghiên cứu công bố rằng triclabendazole, là một thuốc hiệu quả và an toàn trong điều trị bệnh sán lá gan lớn và cũng coh đặc tính chống lại sán máng song kết quả vẫn còn đang tranh luận. Nhóm nghiên cứu đánh giá hiệu quả tác động của triclabendazole và hai chất chuyển hóa chính của nó chống lại các dòng khác nhau của sán máng Schistosoma mansoni nhiễm trên chuột.tác dụng làm giảm lượng sán thấp (18.6–35.9%) được ghi nhận trên các chuột nhiễm dòng sán S. mansoni của Ai Cập đã được điều trị liều duy nhất 120mg/kg 3 ngày trước khi nhiễm hoặc liều duy nhất/ hoặc liều gấp đôi 120–200 mg/kg 7 tuần sau nhiễm. Triclabendazole dã thất bại trong việc làm giảm lượng trứng trong mô, trong hệ tiêu hóa và gan một cách ý nghĩa và trứng đang giai đoạn phát triển. Chỉ định liều 400 mg/kg triclabendazole, hoặc triclabendazole sulphone, hoặc triclabendazole sulfphoxide trên chuọt bị nhiễm với một sán máng S. mansoni của Liberia, kết quả dẫn đến giảm lượng sán ít hơn 10%. Khi so sánh, giảm lượng sán cao (82–100%) được ghi nhận ở các con chuột nhiễm sán máng S. mansoni được điều trị bằng liều duy nhất đường uống 400, 500, hoặc 500 mg/kg 2 lần mỗi ngày thuốc praziquantel, chú trọng đến dòng sán S. mansoni.
Họ kết luận rằng triclabendazole và các chất chuyển hóa trên tỏ ra có hoạt tính chống lại sán máng rất yếu.
Điều trị sán lá phổi bằng Triclabendazole: Hiệu lực điều trị và tính dung nạp trên lâm sàng
Nhóm nghiên cứu gồm M Calvopiña, R H Guderian, W Paredes, M Chico, P J Cooper thực hiện một đề tài đánh giá hiệu lực và tính an toàn về mặt lâm sàng của thuốc tricalbendazole trên sán lá phổi, công trình đã đăng tải trên tạp chí Transactions of the Royal Society of Tropical Medicine and Hygiene. 92(5):566-9. ISSN: 0035-9203. Đây là một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng mở để xác định hiệu lực và tính dung nạp triclabendazole đường uống để điều trị sán lá phổi Paragonimus mexicanus trên 62 bệnh nhân bị sán lá phổi từ vùng Ecuadorian Amazon. Praziquantel đã được sử dụng để phòng trị bệnh này từ lâu. Các bệnh nhân được phân bố ngẫu nhiên theo 4 phác đồ điều trị như sau:
Nhóm 1: Triclabendazole, 5 mg/kg một lần một ngày trong 3 ngày (16 bệnh nhân);
Nhóm 2: Triclabendazole, 10 mg/kg 2 lần một ngày (15 bệnh nhân);
Nhóm 3: Triclabendazole, 10 mg/kg liều duy nhất (16 bệnh nhân);
Nhóm 4: Praziquantel, liều 25 mg/kg 3 lần mỗi ngày trong 3 ngày (15 bệnh nhân).
Tính dung nạp lâm sàng, dựa trên tần số và mức độ các phản ứng phụ, cho thấy tốt hơn ở cả 3 phác đồ triclabendazole so với praziquantel. Qua ghi nhận không thấy trường hợp thay đổi chức năng gan-thận và các giá trị của thông số huyết học. Các triệu chứng lâm sàng đã được giải quyết và có so sánh tỷ lệ giữa 4 nhóm. Đáp ứng điều trị về mặt ký sinh trùng nhanh, được xác định thông qua sự giảm số trứng trung bình của xét nghiệm đờm và hiệu quả này của thuốc triclabendazole tốt hơn so với praziquantel. Vào ngày thứ 90 (sau 3 tháng), 60 bệnh nhân không còn phát hiện thấy trứng trong đờm của họ; 2 bệnh nhân được điều trị liều duy nhất 10 mg/kg, được điều trị lại triclabendazole (5 mg mỗi ngày trong 3 ngày). Sau 1 năm, không óc bệnh nhân nào có trứng trong đờm.
Triclabendazole có thể khuyến cáo như một thuốc thay thế lựa chọn để điều trị sán lá phổi, thuốc hiệu quả như praziquantel trong tác động làm sạch nhiễm ký sinh trùng và dung nạp tốt hơn nhiều so với praziquantel.
So sánh hiệu lực thuốc triclabendazole, nitroxynil và rafoxanide trên sán lá gan lớn trưởng thành và chưa trưởng thành Fasciola hepatica nhiễm trên các gia súc trong điều kiện tự nhiên
Nhóm tác giả D Rapic, N Dzakula, D Sakar, RJ Richards, thuộc khoa bệnh ký sinh trùng, đại học thú y, đại học Zagreb, Yugoslavia. Trong 2 nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đánh giá thuốc hiệu lực thuốc triclabendazole, nitroxynil và rafoxanide trên các gia súc nhiễm tự nhiên và các sán giai đoạn chưa trưởng thành Fasciola hepatica. Thuốc chứa 900mg triclabendazole được chỉ định điều trị đường uống, liều 12mg/kg cân nặng. Rafoxanide và Nitroxynil dùng liều 10mg/kg,rafoxanide cho đường uống và nitroxynil cho đường tiêm dưới da.
Dựa trên các xét nghiệm trứng trong phân 9 tuần sau khi điều trị và hiệu lực của thuốc là 100% đối với triclabendazole và 95% đối với Nitroxynil trong thử nghiệm lâm sàng đầu tiên và 98.4% đối với triclabendazole và 52.9% đối với Rafoxanide 15 tuần sau khi điều trị trong thử nghiệm lâm sàng thứ 2.
Trong thử nghiệm thứ 1, gồm 5 con vật thuộc 3 nhóm từ lò mổ và lượng sán của chúng được đếm. So với nhóm chứng không điều trị, sự giảm sán là 96.9% ở nhóm điều trị bằng Triclabendazolevà 76.4% ở nhóm điều trị bằng Nitroxynil.
Ảnh hưởng thức ăn lên sinh khả dụng thuốc triclabendazole ở bệnh nhân nhiễm sán lá gan lớn
Nhóm nghiên cứu gồm Lecaillon, J B, Godbillon, J, Campestrini, Naquira, Miranda, L Pacheco nghiên cứu và đăng tải trên tạp chí Dược lâm sàng cho biết kết quả về một nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của thức ăn lên sinh khả dụng của thuốc Triclabendazole, kết quả chỉ ra sự hấp thu Triclabendazole (TCBZ) cao khi cho đường uống. Do vậy, ảnh hưởng của thức ăn lên các thông số dược động học của TCBZ và chất chuyển hóa có hoạt tính của nó sulphoxide (TCBZ-SO) vàsulphone (TCBZ-SO2). Thiết kế nghiên cứu với 2 liều duy nhất (10mg kg(-1) của TCBZ được cho 20 bệnh nhân nhiễm sán lá gan lớn. 10 bệnh nhân cho liều đầu tiên sau khi ăn bữa sáng giàu năng lượng, rồi 48 giờ sau đó cho nhịn đói qua đêm. 10 bênh nhân còn lại uống thuốc lúc đói rồi 48 giờ sau ăn sáng. Một chế độ ăn sáng nghèo năng lượng được cho sau khi uống thuốc lúc đói.
Kết quả cho thấy rằng so với tình trạng lúc đói, có sự tăng nồng độ thuốc dưới đường cong (AUC) và Cmax sau khi ăn rất có ý nghĩa (p < 0.0001) đối với các thuốc TCBZ, TCBZ-SO và TCBZ-SO2. Giá trị trung bình của AUC đối với TCBZ (lúc đói: 1.55, sau ăn: 5.72 micromol l(-1) h), TCBZ-SO (lúc đói: 177, sau ăn: 386 micromol l(-1) h) và TCBZ-SO2 (lúc đói: 13.9, sau ăn: 30.5 micromol l (-1) h) chỉ ra một lượng lớn và sinh khả dụng tăng khi có thức ăn. Tất cả bệnh nhân đều được chữa khỏi, ngoại trừ 2 ca phải dùng tới liều thứ 2.
Tính dung nạp điều trị trong số các bệnh nhân được điều trị rất tốt. khi chỉ định thuốc triclabendazole với thức ăn là một khuyến cáo nên thực hiện để tăng tính hiệu lực trên toàn thân trên các bệnh nhân nhiễm sán lá gan lớn và sán lá phổi.
Phối hợp thuốc diệt sán mới: ‘Nitromec’
Thông tin về sản phẩm này được đưa lên trên phần WormMail và FarmOnline today: đây là một sản phẩm phối hợp giữa Ivermectin (một thuốc điều trị sán phổ rộng có vòng macrocyclic lactone) với hai loại thuốc diệt sán nitroxynil (hoạt chất trong ‘Trodax’) và Clorsulon, giống như thuốc Ivomec Plus và các sản phẩm khác. Đây là loại thuốc phối hợp diệt sán cộng hợpđược khám phá nhiều năm qua bởi tác giả nổi tiếng Joe Boray, đang công tác tại Đại học quốc gia Úc (Australian National University).
Một trong những hiểu biết về loại thuốc này là Triclabendazole (đây là một thuốc được xem là chuẩn vàng trong điều trị bệnh sán lá gan lớn) phối hợp với Oxfendazole (’Flukazole’). Tiến sĩ Boray cũng có nhiều đóng góp lớn trong việc ra đời của thuốc Triclabendazole, khi ông làm việc tại hãng Ciba Geigy (nay là tập đoàn Novartis), ở châu Âu. Ngoài ra, lợi điểm của Nitromec là có hiệu lực cao dùng để thay thế các thuốc khác với mục đích xoay vòng điều trị.
Tài liệu tham khảo
1.http://iospress.metapress.com
2.http://www.pubmedcentral.nih.gov/articlerender.
3.http://www.ajtmh.org/cgi/
4.https://www.researchgate.net/publication/13427198_Treatment of human pulmonary paragonimiasis with triclabendazole clinical tolerance and drug efficacy.
5.http://auswormblog.wordpress.com/2009/02/24/new-combination-flukicide-nitromec/
6.http://theland.farmonline.com.au/news/nationalrural/livestock/News/worldfirst-liver-fluke-treatment-debuts-in-australia/