Bệnh sốt rét dơ loài đơn bào Plasmodium spp. gây ra đã được biết đến từ rất lâu, ngay cả thời của tác giả Hypocrate (có lẽ đã trên 2000 năm). Đây là bệnh truyền nhiễm do Plasmodium gây ra, trong đó đáng sợ nhất là Plasmodium falciparum thường gây sốt rét ác tính và có thể dẫn đến tử vong cao. Các loài Plasmodium spp không những gây bệnh cho động vật mà còn gây bệnh cho người. Bốn loài ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) gây bệnh cho người được biết đến phổ biến là P. falciparum, P.vivax, P.malariae và P.ovale. Trên thế giới và tại Việt Nam chúng ta, gần đây các nhà khoa học đã đề cập đến loài KSTSR thứ 5 - đó chính là Plasmodium knowlesi, loài KSTSR này cũng đáng quan tâm vì về mặt sinh lý bệnh và tính nguy hiểm không kém gì với Plasmodium falciparum. Tại Việt Nam, trong cơ cấu ký sinh trùng sốt rét thường có tỷ lệ P. falciparum cao nhất, kế đến là P. vivax, rồi một ít là P. malariae (1- 3%), riêng P. ovale hiện nay vẫn còn đang tranh luận có hay không ở Việt Nam chúng ta?
Công tác chẩn đoán và điều trị sốt rét hiện nay dựa trên Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét theo quyết định của Bộ Y tế 4605 ra ngày 24 tháng 11 năm 2009. Trong lần thay đổi này đã có những điểm đổi thay đáng kể phù hợp với tình hình thế giới và tình hình của Việt Nam, song không phải lúc nào việc chẩn đoán và điều trị cũng được “thực hành” đúng 100% và đặc biệt bối cảnh kháng hoặc đa kháng thuốc của P.falciparum làm thêm bức tranh sốt rét càng phức tạp. Sự ra đời của một số thuốc mới cũng như sự song hành dùng các phác đồ thuốc phối hợp giữa thuốc mới và thuốc cũ (như các kháng sinh) là mọt thay đổi phác đồ nhằm giúp chống kháng tốt trong thời điểm hiện nay. Bài viết dưới đây nhằm tổng hợp một số thông tin về tình hình thuốc sốt rét nói chung và các bài biết giới thiệu về kháng sinh là ứng cử viên trong chống lại KSTSR.
Hạ giá thuốc điều trị sốt rét
Cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton thông báo đã đạt được một thỏa thuận với các công ty dược phẩm về việc hạ giá các loại thuốc ACT điều trị bệnh sốt rét. Theo thỏa thuận được ký kết giữa Quỹ Clinton và sáu công ty dược phẩm, các loại thuốc ACT Hiệp hội trị liệu dựa trên chất artemisinin là thuốc điều trị bệnh sốt rét hiệu quả nhất hiện nay sẽ giảm giá hơn 30%. Mỗi năm trên thế giới có hơn 500 triệu người cần được chữa trị bệnh sốt rét. Trong khi đó, theo nhận định của cựu tổng thống Bill Clinton, gần như toàn bộ các bệnh nhân sốt rét đều có thể thoát chết nếu được chữa trị bằng các loại thuốc đặc trị hiệu quả. Nhưng trong những năm gần đây, armoise, loại thực vật cho phép chiết xuất chất artémisinine để bào chế thuốc đặc trị bệnh sốt rét có giá dao động tăng từ 155 USD lên 1.100 USD/kg.
Quỹ Clinton đã thương lượng với các công ty dược phẩm để có mức giá thấp nhất và ổn định nhất (không phụ thuộc vào những biến động giá cả armoise). Các loại thuốc vừa được giảm giá theo thỏa thuận trên sẽ dành cho 69 nước châu Phi, châu Á, khu vực Mỹ Latin và vùng Caribê. Trước đó không lâu, Quỹ Clinton đã ký thỏa thuận với các công ty dược phẩm về việc hạ giá thuốc chống AIDS dành cho các nước đang phát triển.
Thuốc chống sốt rét kháng lại kháng sinh
Sốt rét là một căn bệnh rất nguy hiểm do một loại ký sinh trùng có trong muỗi gây ra, mỗi năm cướp đi tính mạng của khoảng 1 triệu người dân trên toàn thế giới. Một kết quả nghiên cứu khá ngạc nhiên cho biết việc điều trị bệnh sốt rét bằng loại thuốc rẻ tiền và được sử dụng rộng rãi là Chloroquine có thể gây ra sự đối kháng với chất kháng sinh thuộc nhóm Fluoroquinolones vì Chloroquine là một “họ hàng” rất gần của Fluoroquinolones cho dù người bệnh chưa bao giờ sử dụng Fluoroquinolones.
Tiến sĩ Michael Silverman của bệnh viện Lakeridge tại Oshawa, Ontario nói thêm rằng kháng sinh thuộc nhóm Fluoroquinolones hay quinolones được sử dụng rất phổ biến ở Bắc Mỹ và châu Âu. Cuộc nghiên cứu được ông và các đồng nghiệp tiến hành từ năm 2002 đến 2005 khi đến thăm những khu làng rất xa xôi hẻo lánh tại rừng mưa nhiệt đới Guyanese. Ông nói những người dân ở đây chưa bao giờ sử dụng Fluoroquinolones nên là đối tượng nghiên cứu lý tưởng nhất. Kết quả nghiên cứu cho thấy những người dân ở đây có tỷ lệ đối kháng với Fluoroquinolones khá lớn. Tìm hiểu nguồn nước và thức ăn, những nhà nghiên cứu không tìm thấy dấu hiệu của bất cứ loại kháng sinh nào khác ngoài thuốc chống sốt rét Chloroquine. Kết quả nghiên cứu này đã giải thích tỉ lệ kháng chất kháng sinh thuộc nhóm Fluoroquinolones kháo cao ở những vùng nhiệt đới nói chung vì ở đó thuốc chống sốt rét được người dân sử dụng với một số lượng rất lớn. Tiến sĩ Silverman kết luận tất cả những gì chúng ta cần làm là tăng cường các biện pháp tránh sốt rét nhờ đó không phải sử dụng nhiều loại thuốc này nữa và không xảy ra tình trạng kháng lại kháng sinh Fluoroquinolones.
Kháng sinh mới có triển vọng chống bệnh sốt rét
Một nghiên cứu mới đây cho thấy tigecyclin – thuốc đầu tiên thuộc một nhóm kháng sinh mới có hoạt tính chống sốt rét rõ rệt và cũng có hiệu quả chống sốt rét kháng đa thuốc khi kết hợp với các thuốc chống sốt rét thông thường. Nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà khoa học thuộc Trường ĐH Y Vienna (Áo), Viện Nghiên cứu Sáng kiến Sốt rét Bandarban (Bangladesh) và Trung tâm Nghiên cứu Bệnh tiêu chảy Quốc tế tại Dhaka (Bangladesh). Plasmodium falciparum kháng thuốc đang ngày càng gia tăng đã dẫn tới việc nghiên cứu các liệu pháp chống sốt rét mới. Tigecyclin thuộc nhóm thuốc kháng sinh mới có tên là glycylcyclin, có tác dụng chống vi khuẩn và được thiết kế đặc biệt để khắc phục 2 cơ chế kháng tetracyclin. Các nghiên cứu lâm sàng về tigecyclin cho thấy thuốc dễ sử dụng và dung nạp tốt với phác đồ 2 lần/ngày.
Trong nghiên cứu, các mẫu máu được lấy từ bệnh nhân nam và nữ bị nhiễm P. falciparum ở Bangladesh. Loại khỏi nghiên cứu những phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú và những bệnh nhân đã dùng liệu pháp thuốc điều trị sốt rét tới 30 ngày trước đó. Khi thử nghiệm với 66 mẫu phân lập, tigecyclin là thuốc có hoạt tính cao nhất chống P. falciparum trong tất cả các kháng sinh. Hơn nữa, tigecyclin có hoạt tính chống P. falciparum cao gấp 6 lần so với doxycyclin; tuy nhiên, khi thử nghiệm kết hợp với doxycyclin, thấy có mối tương quan hoạt tính rõ rệt. Cuối cùng, thử nghiệm thêm về tigecyclin đã xác nhận các nghiên cứu trước đây cho thấy tigecyclin gây ra đáp ứng chết muộn và có thời gian bán thải khá dài khiến thuốc dễ sử dụng hơn tetracyclin và doxycyclin.
Nhóm nghiên cứu kết luận: “tigecyclin có hoạt tính chống sốt rét rõ rệt và có thể là thuốc dự tuyển tiềm năng để nghiên cứu hiệu quả lâm sàng khi kết hợp với các thuốc chống sốt rét tác dụng nhanh trong điều trị P. falciparum kháng đa thuốc ở những bệnh nhân bị bệnh nặng”.
Thuốc chữa bệnh sốt rét ở Việt Nam xuất hiện khi nào?
Hiện nay, sốt rét vẫn là một căn bệnh khó tiêu diệt. Đặc biệt, hai loại muỗi Anopheles Gambiae và Anopheles Funesus được xem là “vô địch” trong lĩnh vực truyền bệnh cho người ở châu Phi, làm tiêu tốn hàng năm khoảng 12 tỷ USD trong việc phòng và trị bệnh. Tại Việt Nam, mỗi năm có khoảng 1 triệu ca sốt rét, trong đó có 85% là do Plasmodium falciparum đã đề kháng với chloroquine và Fansidar. Vì thế, các nhà khoa học vẫn không ngừng nghiên cứu nhằm tìm ra một loại thuốc mới điều trị sốt rét hiệu quả hơn. Bệnh sốt rét quay trở lại từ đầu thập niên 70 với các ký sinh trùng đã đề kháng nhiều loại thuốc cổ điển giá rẻ như chloroquine. Bệnh đã gây thiệt hại khoảng 12 tỷ USD hàng năm cho các nước châu Phi, chiếm đến 40% ngân sách phục vụ sức khỏe cộng đồng.
Theo báo cáo gần đây của Viện Y học IOM thì bệnh sốt rét đang tái phát ở mức độ cao, từ đó nhấn mạnh đến việc cần thiết phải bổ sung nguồn thuốc cấp bách có thể thay thế các thuốc trị sốt rét cũ đã bị đề kháng với giá thành rẻ hơn. Hiện nay, liệu pháp kết hợp ACT (Artemisinine based Combination Therapies) là phương pháp điều trị sốt rét hiệu quả nhất, nhưng do chi phí cao nên việc cung cấpï cho bệnh nhân nghèo tại các địa phương có dịch sốt rét còn gặp khó khăn (mỗi năm cần tới khoảng 300-500 triệu phương thuốc điều trị).
Cây thanh hao hoa vàng đã được y học Đông phương biết đến từ lâu trong điều trị bệnh sốt rét. Tên khoa học của cây là Artemisia annua. Tại Việt Nam, hai danh y Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông cũng xác nhận thanh hao hoa vàng có khả năng trị được bệnh sốt rét, đổ mồ hôi trộm. Hoạt chất chính của cây thanh hao hoa vàng là artemisinine (tiếng Hoa gọi là qinghaosu) được phân lập và có cấu trúc xác định vào năm 1972 - là một chất sesquiterpenee lactone với một cầu nối peroxide bên trong. Lá thanh hao được tán nhuyễn, xay thành bột để chiết xuất hoạt chất artemisinine. Năm 1993, Vonwiller và cộng sự đã báo cáo một phương pháp mới ly trích các hợp chất của cây thanh hao hoa vàng giúp gia tăng hàm lượng artemisinine.
Việc kết hợp các dẫn xuất của artemisinin như artesunate, artemether tỏ ra có hiệu quả trong việc chống lại ký sinh trùng sốt rét đã đề kháng với thuốc cổ điển. Artemether đã được phép đăng ký sử dụng tại châu Phi với tên Paluther. Tuy nhiên do chi phí sản xuất thuốc còn quá cao, thời gian bán hủy ngắn nên gây nhiều khó khăn cho việc điều trị vì bệnh nhân phải dùng thuốc liên tục sau mỗi 4 giờ. Thời gian điều trị theo phác đồ kéo dài thường dễ thất bại nếu bệnh nhân không thường xuyên dùng thuốc. Mặc dù artemisinin được xem là chất căn bản trong liệu pháp kết hợp ACT, nhưng khả năng điều trị còn giới hạn do giá thành cao cũng như phương pháp ly trích tốn nhiều thời gian. Vì thế, việc nghiên cứu sản xuất một loại thuốc hữu hiệu chống sốt rét với giá thành hạ tỏ ra cần thiết hơn bao giờ hết.
Việc phát minh thuốc mới chống sốt rét phải đạt được các yêu cầu:
oHiệu quả hơn liệu pháp ACT;
oKhông phụ thuộc vào cây thanh hao hoa vàng;
oGiá thành hạ;
Một sản phẩm mới ra đời với mã số Oz 277/Rbx 11160 đã được xem là bước đột phá lớn nhất trong điều trị sốt rét hiện nay. Đây là thành quả của một nỗ lực hợp tác quốc tế được tiến hành từ cuối thập niên 90 thế kỷ 20 giữa các nhà khoa học thuộc các Viện Đại học Monash (Úc), Trung tâm Y khoa Nebraska (Mỹ), Viện Bệnh Nhiệt đới (Thụy Sĩ) và Viện Dược phẩm Hoffmann-La Roche (Thụy Sĩ). Kết quả của các công trình nghiên cứu đã được phổ biến trên tạp chí khoa học Nature. Oz 277/Rbx 11160 là một chất tổng hợp có cấu trúc tương tự artemisinin, sẽ là vũ khí chính trong cuộc chiến chống lại bệnh sốt rét đa kháng thuốc và có thể đáp ứng được nhu cầu điều trị trong vòng 3 năm tới. Thuốc tác động bằng cách dùng các gốc tự do tấn công vào protein và enzyme của ký sinh trùng Oz 277/Rbx 11160 hiện đang được thử nghiệm về tính an toàn trên người với kết quả rất hứa hẹn.
GS. Bill Charman thuộc trường Đại học Dược Victoria cho biết Oz 277/Rbx 11160 vừa rẻ vừa dễ sản xuất, mở ra tiềm năng có thể cứu sống hàng triệu bệnh nhân sốt rét trên khắp thế giới. Theo thống kê năm 2003, mỗi ngày tại châu Phi có đến 3.000 trẻ em tử vong vì sốt rét, nghĩa là cứ mỗi 30 giây lại có một trẻ em châu Phi tử vong vì căn bệnh này. Sốt rét cũng là mối đe dọa lớn nhất đối với sức khỏe của phụ nữ có thai và trẻ sơ sinh ở châu Phi. Hiện hàng năm có khoảng 20% dân số thế giới sống ở những nước nghèo nhất phải đối diện với nguy cơ nhiễm sốt rét. Cũng theo GS. Charman: “Chúng tôi đã thật sự xúc động về sự tiến bộ và tốc độ phát triển của thuốc. Hiện thuốc đang được thử nghiệm tại châu Âu, nếu tiến độ diễn ra tốt đẹp thì chỉ trong vòng 3 năm tới, đây sẽ là vũ khí mới giúp con người chống lại bệnh sốt rét một cách hiệu quả”.
Mục đích chính của công trình nghiên cứu là cho ra đời được một loại thuốc hữu hiệu vớigiá thành thấp nhằm có thể cung cấp cho các quốc gia nghèo. Khả năng của Oz 277/Rbx 11160 là dùng điều trị các ký sinh trùng sốt rét đã đề kháng nhiều loại thuốc. Thử nghiệm trên chuột cho thấy 95-100% ký sinh trùng biến mất trong vòng 3 ngày. Như thế chỉ với một đợt điều trị 3-4 ngày đã có thể chữa khỏi bệnh. Với giá thành điều trị 1 USD/ngày thì chương trình điều trị 3 ngày có thể dễ dàng được thực hiện. Loại thuốc mới này hứa hẹn sẽ giữ vai trò then chốt trong việc điều trị bệnh sốt rét, thay thế các thuốc cũ đã giảm hiệu quả.
Từ tháng 5/2003, công ty dược phẩm hàng đầu của Ấn Độ Ranbaxy đã ký một thỏa ước với MMV (Geneve-Thụy Sĩ) để cùng phát triển sản phẩm peroxyde trong cuộc chiến toàn cầu chống lại bệnh sốt rét. MMV (Medicines for Malaria Venture) là tổ chức phi lợi nhuận chuyên khám phá, phát triển và phân phối các phương tiện chống sốt rét. Ngày 19/8/2004, Ranbaxy và MMV đã thông báo việc đưa thuốc vào thử nghiệm lâm sàng trên người. Cả hai đơn vị này đã được cơ quan MHPRA (Medicines and Healthcare Products Regulatory Agency) cho phép theo đuổi việc thử nghiệm lâm sàng trên người tại Anh. Đây là bước thử nghiệm thuốc mới đầu tiên sau khi đã đạt được độ an toàn và hiệu quả trên các bước thử nghiệm tiền lâm sàng. Oz 277/Rbx 11160 đã được lượng giá trong pha I nghiên cứu về độ an toàn, sự dung nạp cũng như hiệu lực dược lý trên người tại Anh. Như vậy, trong vòng vài năm tới, hy vọng con người sẽ có thêm một vũ khí hữu hiệu để ngăn chặn bệnh sốt rét - hiện vẫn là nỗi lo của những quốc gia chậm hoặc đang phát triển.
Hợp chất kháng sinh giúp kiểm soát bệnh sốt rét
Kết quả một nghiên cứu do các nhà khoa học của Anh, Đức và Kenya tiến hành trên chuột cho thấy một hợp chất kháng sinh có thể giúp những người có nguy cơ cao bị mắc bệnh sốt rét kiểm soát hoặc được căn bệnh này. Nghiên cứu này được đăng tải trên tạp chí Science Translational Medicine số ra tháng 7/2010.
Ông Steffen Borrmann của Viện nghiên cứu y khoa Kenya ở Kilifi, một thành viên của nhóm nghiên cứu, nói rằng hợp chất kháng sinh này có thể giúp những người khỏe mạnh phát triển một khả năng miễn dịch tự nhiên đối với ký sinh trùng sốt rét, bảo vệ cơ thể khỏi việc lây nhiễm căn bệnh này trong tương lai. Ông Borrmann và các đồng nghiệp đã tiến hành thí nghiệm bằng cách tiêm các chất kháng sinh phòng bệnh vào những con chuột khỏe mạnh, sau đó cấy các ký sinh trùng sốt rét vào cơ thể chúng. Các nhà khoa học nhận thấy rằng những con chuột này đã tạo ra một khả năng miễn dịch giống như vaccine chống lại việc tái nhiễm.
Kết quả còn cho thấy thậm chí chỉ cần tiêm một liều lượng thấp các chất kháng sinh, hầu hết những con chuột đều được bảo vệ khỏi những biến chứng não gây tử vong do loại ký sinh trùng sốt rét nguy hiểm nhất Plasmodium falciparum gây ra. Đội ngũ nghiên cứu của Borrmann muốn tiếp tục những phát hiện mới này trong các cuộc thí nghiệm lâm sàng ở người để xem cơ chế trên có hoạt động hay không. "Nếu thành công, việc tiêm định kỳ các chất kháng sinh ở những nhóm dân cư có nguy cơ cao, như là trẻ em, có thể sẽ là một công cụ hữu hiệu trong việc kiểm soát hoặc loại bỏ bệnh sốt rét ở những khu vực có khả năng lây nhiễm cao," các nhà khoa học phát biểu.
Trong khi đó, nhà sản xuất dược phẩm GlaxoSmithKline của Anh cũng đang tiến hành thử nghiệm giai đoạn cuối một loại vắcxin chống bệnh sốt rét và dự kiến sẽ có kết quả vào năm 2011. Theo GlaxoSmithKline, nếu có kết quả khả quan, công ty sẽ tìm kiếm sự thông qua đối với loại vaccine có tên gọi Mosquirix vào năm 2012. Các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Mỹ, châu Á và châu Phi. Mỗi năm có khoảng 515 triệu nguời mắc bệnh, từ 1 đến 3 triệu người tử vong - đa số là trẻ em ở khu vực phía nam sa mạc Sahara, châu Phi. Khoảng 90% số ca tử vong xảy ra tại đây.
Thuốc sốt rét thế hệ cũ nhưng phát huy tính năng mới
Khi nhiều loại kháng sinh mới ra đời và được sử dụng ngày càng rộng rãi để thay thế các kháng sinh cũ do có tác dụng rộng hơn thì nhiều loại kháng sinh cổ điển đang bị rơi vào quên lãng. Tuy nhiên, do quá lạm dụng thuốc nên trong thời gian gần đây, tình trạng vi khuẩn kháng lại những kháng sinh mới đang ngày càng trở nên phổ biến. Vì vậy, vấn đề tái sử dụng các loại kháng sinh cũ đang trở nên cần thiết khi mà giá thành của chúng tương đối rẻ và tác dụng diệt khuẩn vẫn còn tốt. Ví dụ như một số kháng sinh cổ điển sau đây.
Doxycyclin và minocyclin: là hai kháng sinh thuộc họ tetracyclin thế hệ thứ 2 với phổ tác dụng khá rộng trên nhiều chủng vi khuẩn gram dương, gram âm, các loại xoắn khuẩn và vi khuẩn nội bào. Các thuốc này có nhiều ưu điểm so với tetracyclin thế hệ 1 như có thời gian bán thải dài, dễ hấp thu qua đường uống, ít bị kháng thuốc và không làm biến màu răng.
Trước đây, các kháng sinh họ tetracyclin thường được sử dụng trong điều trị viêm phổi không điển hình, đợt cấp của viêm phế quản mạn, các bệnh lý do nhiễm xoắn khuẩn như giang mai, leptospirosis hoặc các chủng vi khuẩn nội bào... Hiện nay, có nhiều mầm bệnh mới xuất hiện đã được điều trị thành công với 2 loại kháng sinh này. Doxycyclin được chứng minh rất có hiệu quả trong điều trị bệnh Lyme và các bệnh lý do nhiễm Ehrlichia chaffeensis (ehrlichiosis).
Thuốc cũng có khả năng tiêu diệt Helicobacter pylori (loại xoắn khuẩn gây viêm loét dạ dày - tá tràng), mycobacterium marinum (một loại trực khuẩn lao), ký sinh trùng sốt rét plasmodium falciparum kháng mefloquin và bartonellosis. Với tình trạng kháng thuốc của vi khuẩn ngày càng phổ biến, doxycyclin và minocyclin cũng đã được thử nghiệm thành công với nhiều chủng vi khuẩn kháng thuốc trong bệnh viện như tụ cầu kháng methicillin (với minocyclin), liên cầu nhóm D kháng vancomycin và phế cầu kháng penicillin (với doxycyclin).
Trimethoprim-sulfamethoxazol (Cotrimoxazol,trimazol,bactrim, biseprol...): Thuốc bắt đầu được sử dụng trong thực tế từ những năm 1970 với nhiều ưu điểm như rẻ tiền, hấp thu tốt qua đường uống, có phổ tác dụng khá tốt trên các nhiễm khuẩn trong cộng đồng. Trước đây, thuốc thường được sử dụng trong điều trị các nhiễm trùng đường sinh dục, tiết niệu và đường hô hấp trên. Bên cạnh tác dụng tốt trên nhiều loại vi khuẩn gram âm, co-trimoxazol còn có khả năng kìm hãm sự phát triển của nhiều chủng tụ cầu, kể cả một số chủng tụ cầu kháng thuốc. Ngoài ra, thuốc cũng có khả năng chống lại một số mầm bệnh mới được xác định trong các nhiễm khuẩn bệnh viện như stenotrophomo-nas maltophilia và burkholderia cepacia.
Do có khả năng ngấm vào dịch não tủy nên co-trimoxazol cũng được sử dụng trong điều trị viêm màng não do listeria ở những bệnh nhân bị dị ứng với penicillin là thuốc được lựa chọn hàng đầu cho chỉ định này. ở những bệnh nhân HIV/AIDS, thuốc này thường được lựa chọn để dự phòng viêm phổi do Pneumocystis Carinii và tổn thương thần kinh trung ương do toxoplasma. Thuốc cũng được dùng để dự phòng viêm phúc mạc ở những bệnh nhân xơ gan.
Clindamycin (Dalacin): thuốc được đưa vào sử dụng từ những năm 1960 và trước đây thường được dùng trong điều trị các nhiễm trùng nặng do vi khuẩn kỵ khí. Tương tự như các thuốc kể trên, clindamycin được hấp thu nhanh qua đường uống và xâm nhập tốt vào các mô của cơ thể trừ dịch não tủy. Do có tác dụng tốt trên nhiều chủng vi khuẩn kỵ khí nên thuốc thường được dùng phối hợp trong điều trị các nhiễm trùng trong ổ bụng, nhiễm trùng bàn chân ở bệnh nhân tiểu đường, cốt tủy viêm do nhiều mầm bệnh phối hợp hoặc loét cùng cụt nhiễm khuẩn. Clindamycin còn được dùng trong một số chỉ định khác như phối hợp với quinine trong điều trị babesiosis, phối hợp với primaquin trong điều trị viêm phổi do Pneumocystis carinii hoặc phối hợp với pyrimethamin trong điều trị các nhiễm khuẩn do toxoplasma.