Kỹ thuật mới điều trị hiệu quả chảy máu não
Đột quỵ chảy máu não hay còn được gọi đơn giản là chảy máu não là một tình trạng rất nặng của bệnh lý thần kinh sọ não. Trong bệnh lý này, vì một lý do nào đó, mạch máu não bị vỡ và máu tràn vào trong não bộ. Tình hình trở nên phức tạp và nặng nề từ khi máu bắt đầu chảy ra. Vấn đề cốt lõi nhất trong điều trị chảy máu não là loại bỏ được khối máu tụ và khôi phục khoảng trống cho tế bào thần kinh. Nhưng thực hiện được là điều không dễ.
Bài toán khó
Trong đột quỵ não, có hai thể bệnh chính là nhồi máu não và chảy máu não. Trong hai thể này thì thể chảy máu não có mức độ bệnh nặng hơn, tỷ lệ tử vong cao hơn và để lại di chứng nhiều hơn. Theo nhiều thống kê khác nhau, người ta đều công nhận là chảy máu não có tỷ lệ gặp dao động từ 12-35% tổng số bệnh nhân bị đột qụy. Phần lớn người bệnh rất khó phục hồi, thậm chí bị tử vong hoặc nếu có phục hồi thì để lại di chứng gây gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Lý do chảy máu não: thứ nhất, những người chảy máu não thường có thành mạch rất yếu. Khi bị chảy máu là vỡ ra ồ ạt và tạo thành một khối máu tụ trong não. Thứ 2, hộp sọ của chúng ta vô cùng chật hẹp và vừa khít với não bộ. Cho nên sự xuất hiện đột xuất của khối máu tụ nội sọ đã vô hình trung chiếm chỗ và chèn ép tế bào thần kinh. Những tế bào thần kinh chức năng của não bộ cứ bị chết dần và các hoạt động sống của người bệnh cứ lần lượt mất theo cho tới khi bị tàn phế.
Người ta ước tính rằng, tỷ lệ người chết sau 30 ngày dao động trong khoảng 30-45%. Trong số những người sống sót qua khỏi thì có trên 50% bị tàn phế, tức là tỷ lệ chữa khỏi thành công hoàn toàn cho người bệnh rất thấp, ước tính chỉ được khoảng 25%. Máu chảy càng nhiều, càng ở những vị trí nguy hiểm thì tỷ lệ thành công càng nhỏ đi. Hai vị trí nguy hiểm đáng sợ nhất là chảy máu não thất toàn bộ và chảy máu thân não. Những thể chảy máu não thất tỷ lệ tử vong gần như 100%.
Vấn đề cốt lõi nhất của điều trị là tìm mọi cách để loại bỏ được khối máu tụ và khôi phục khoảng trống cho tế bào thần kinh.
Kỹ thuật mới
Tại Hội nghị quốc tế về đột qụy não diễn ra tại New Orleans (Mỹ) từ ngày 31/1/2012 đến ngày 2/2/2012, người ta đã chứng kiến nhiều thành công và sáng tạo mới trong việc điều trị chảy máu não. Một trong các kỹ thuật được đánh giá cao nhất là kỹ thuật can thiệp não bộ tối thiểu của các nhà thần kinh học đến từ Trung tâm Y khoa Johns Hopkins (Mỹ).
Bản chất của kỹ thuật này là sự kết hợp hài hoà giữa biện pháp điều trị kinh điển và phẫu thuật ngoại khoa. Các nhà thần kinh học đã cố gắng tránh những nhược điểm của phẫu thuật ngoại khoa để trả lại cho người bệnh sự hồi phục hoàn toàn. Theo như kết quả công bố thì với kỹ thuật này, tỷ lệ người bệnh phục hồi cao hơn so với biện pháp điều trị kinh điển là 10-15% sau 6 tháng điều trị. Như thế là biện pháp này đã nâng số người may mắn từ 25% lên tới 35-40%.
Trong phẫu thuật ngoại khoa kinh điển, bác sĩ sẽ phải mở một mảnh xương sọ khá lớn để bộc lộ não thì trong kỹ thuật này, người ta chỉ phải khoan một lỗ bé xíu trên hộp sọ. Lỗ này bé tới mức gần như không có gì xảy ra. Nó chỉ vừa đúng một cathete để xuyên vào sọ. Sau đó, dưới sự hướng dẫn của cắt lớp CT, một công cụ định vị giải phẫu sọ não bộ, người ta đưa một cathete đi thẳng tới khối máu tụ dù khối máu tụ đó ở bất kỳ vị trí nào. Thông qua cathete này, người ta truyền trực tiếp thuốc phân hủy cục máu đông tPA (chất hoạt hoá plasminogen của mô). Toàn bộ tiến trình này chỉ diễn ra trong đôi ba ngày.
GS. Daniel F. Hanley - Trưởng nhóm thực hiện kíp kỹ thuật cho biết, kỹ thuật can thiệp não bộ tối thiểu đã biến những bệnh nhân không thể điều trị thành những bệnh nhân có thể điều trị. Tỷ lệ người được “mổ” cao hơn. Từ trước đến nay, tỷ lệ người bệnh đủ tiêu chuẩn để tiến hành mổ theo phương pháp truyền thống chỉ là 10%. Nhưng nay chúng tôi có thể nâng lên 90-100%. Theo ông, nếu như một số lượng lớn bệnh nhân tiếp theo được điều trị thành công, kỹ thuật mới có thể giảm được gánh nặng bệnh tật cho gia đình bệnh nhân và xã hội. |
Trong quá trình đó, mô não của người bệnh hầu như không bị can thiệp thô bạo làm tổn thương như phẫu thuật mổ mở. Vì bản thân cathete đã nhỏ lại được đưa đường bởi một máy cắt lớp CT nhìn xuyên thấu nên gần như không gây ra tổn thương nào. Điều này đã khắc phục được nhược điểm của phương pháp mổ mở.
Việc đưa trực tiếp thuốc tan máu đông vào cục máu đông đã làm cho cục máu đông được tiếp xúc trực tiếp với thuốc. Nó đã khắc phục được nhược điểm của phương pháp điều trị nội khoa kinh điển.
Để hoàn thiện quá trình điều trị, khi dùng biện pháp kinh điển, chúng ta phải mất tới 20-30 ngày cho những bệnh nhân điển hình. Nhưng với kỹ thuật can thiệp não bộ tối thiểu, chúng ta chỉ cần 3-5 ngày. Thời gian này quả là một sự vượt bậc trong điều trị đột qụy não.
Khó khăn và kỳ vọng
Nhưng việc thực hiện kỹ thuật trên thực chẳng dễ dàng. Cái khó không phải là xác định vị trí máu tụ mà khó là đưa cathete thật khéo léo sao cho chỉ đi đúng một đường cơ bản là có thể đến đúng đích. Thêm vào đó, điều kiện thực hiện là vô cùng nghiêm ngặt giống như ghép tạng vậy. Vô khuẩn là một điều được ưu tiên đưa lên hàng đầu. Nó quyết định thành hay bại của biện pháp mới được khai sinh này vì mô não bị “mở” ra thông qua cathete từ 2-3 ngày liền, nếu không cẩn thận, chúng ta có thể làm nhiễm khuẩn não rất nguy hiểm.
Tuy nhiên, với những thành tựu trên đây, kỹ thuật này hoàn toàn có thể ứng dụng điều trị cho người bệnh đột quỵ não. Người ta kỳ vọng trong một thời gian ngắn nữa, có thể nâng được số bệnh nhân điều trị khỏi và hạ tỷ lệ người tử vong.
Điểm tiên tiến nhất của kỹ thuật này là can thiệp mổ rất tối thiểu và do đó hầu như không làm tổn thương nghiêm trọng tới não bộ như những gì mà biện pháp mổ mở truyền thống gặp phải. Vì thế, nó đang được kỳ vọng là kỹ thuật mới hữu dụng.
1/6 trường hợp ung thư trên thế giới là do nhiễm trùng
Ước tính mới đây cho biết 1/6 số trường hợp ung thư - khoảng 2 triệu người mỗi năm trên toàn cầu – là do các nhiễm trùng có nhiều khả năng điều trị hoặc phòng tránh được.
Một tổng quan các bệnh truyền nhiễm của Lancet, đã xem xét tỷ lệ mắc 27 loại ung thư ở 184 quốc gia, thấy rằng 4 nhiễm trùng chính là nguyên nhân, đó là nhiễm vi rút HPV, Helicobacter pylori, vi rút viêm gan B (HBV) và C – chiếm 1,9 triệu trường hợp ung thư cổ tử cung, đường tiêu hóa và gan. Phần lớn các trường hợp là ở các nước đang phát triển.
Các nhà khoa học thuộc Cơ quan Nghiên cứu ung thư Quốc gia ở Pháp cho biết cần thêm các nỗ lực để giải quyết những ca bệnh có thể phòng tránh được này và thừa nhận ung thư là bệnh lây nhiễm.
Tỷ lệ ung thư liên quan với nhiễm trùng ở các nước đang phát triển (như Đông Á), cao gấp khoảng 3 lần so với ở các nước phát triển (như Anh), tương ứng là 22,9% so với 7,4%. Gần 1/3 số trường hợp ung thư xuất hiện ở người dưới 50 tuổi.
Ở nữ, ung thư cổ tử cung chiếm khoảng một nửa số trường hợp ung thư liên quan tới nhiễm trùng. Ở nam, hơn 80% là ung thư gan và dạ dày. Theo tiến sĩ Catherine de Martel và Martyn Plummer, người đứng đầu nghiên cứu, “Nhiễm một số virus, vi khuẩn, và ký sinh trùng là những nguyên nhân gây ung thư lớn nhất và có thể phòng tránh được trên thế giới”. “Dùng các phương pháp y tế công cộng hiện hành để phòng ngừa nhiễm trùng, như tiêm chủng, thực hành tiêm an toàn hơn, hoặc điều trị kháng khuẩn, có thể có hiệu quả đối với gánh nặng bệnh ung thư toàn thế giới trong tương lai”.
Các vaccine được dùng để bảo vệ chống HPV (liên quan với ung thư cổ tử cung) và HBV (một nguyên nhân của ung thư gan). Các chuyên gia cho biết ung thư dạ dày có thể phòng tránh được bằng cách diệt H. pylori trong đường ruột với một liệu trình kháng sinh.
Tiến sĩ Goodarz Danaei thuộc Trường Đại học Y tế công cộng Harvard ở Boston (Mỹ), nói: “Từ khi các vắc-xin hiệu quả và giá thành tương đối rẻ phòng ngừa HPV và HBV được sử dụng, thì việc tăng bao phủ tiêm chủng nên là phần chính của hệ thống y tế ở các quốc gia có gánh nặng ung thư cao”.
Jessica Harris thuộc Viện Nghiên cứu ung thư Anh cho biết “Điều quan trọng là các nhà chức trách trên thế giới phải tìm mọi nỗ lực để giảm số trường hợp ung thư liên quan tới nhiễm trùng, đặc biệt khi nhiều trường hợp nhiễm trùng này có thể phòng ngừa được. Tại Anh, nhiễm trùng được cho là gây ra 3% số trường hợp ung thư, chiếm khoảng 9.700 ca mỗi năm”.
Dược phẩm - tác nhân mới gây ô nhiễm nguồn nước
Có công lớn trong việc bảo vệ sức khỏe và tính mạng cho con người, dược phẩm bỗng dưng bị "nhúng chàm" vào việc gây ô nhiễm nguồn nước, được xếp hạng là "tác nhân mới gây ô nhiễm môi trường".
Nhiều mẫu nước được xét nghiệm tại nhiều nguồn nước khác nhau trên thế giới đã cho thấy sự hiện diện của nhiều dạng dược phẩm, chẳng hạn thuốc kháng sinh, thuốc kháng trầm cảm, thuốc tránh thai, thuốc chống động kinh, thuốc trị các bệnh ung thư, thuốc an thần, thuốc giảm đau, thuốc hạ cholesterol...
Tương đương lượng thuốc trừ sâu
Đánh động từ 20 năm trước Cách đây khoảng 20 năm, các nhà khoa học của EPA đã phát hiện trong các mẫu bùn lấy từ quá trình xử lý nước thải của một trạm xử lý có chứa aspirin, caffeine, nicotine. Nhưng vào thời điểm đó, những phát hiện này cũng như "đàn gảy tai trâu" và chẳng đánh động được bất cứ sự quan tâm nào. |
Vậy những loại thuốc này từ đâu mà đến? Chúng "luồn lách" bằng nhiều con đường khác nhau. Đến từ chất thải của các hãng bào chế dược phẩm, từ bệnh viện, các cơ sở y tế, cơ thể của người sử dụng thuốc. Nên nhớ rằng không phải bất cứ dược phẩm nào cũng được chuyển hóa hết trong cơ thể. Có những dược phẩm chỉ được chuyển hóa một phần, phần còn lại sẽ được thải qua phân, nước tiểu...
Một nguyên nhân vô cùng quan trọng khác để dược phẩm xâm nhập nguồn nước là cách vứt bỏ dược phẩm không đúng cách, một số bệnh nhân vứt bỏ dược phẩm không sử dụng hoặc hết hạn bằng cách quăng vào thùng rác hoặc cho vào bồn cầu rồi giội nước. Tất cả dược phẩm này "ung dung" thoát khỏi các quy trình xử lý nước thải, đi vào sông hồ, thậm chí cả những tầng nước ngầm.
Nông nghiệp, chăn nuôi súc vật cũng là một nguyên nhân để dược phẩm đi vào nguồn nước. Dược phẩm phổ biến bao gồm các loại kháng sinh, hormone và vô vàn loại thuốc thú y khác. Phân bón do vật nuôi thải ra có chứa những loại dược phẩm đó lại được dùng để bồi bón nông sản, rồi sẽ được thấm vào mạch nước dưới lòng đất.
Không riêng gì dược phẩm, các loại mỹ phẩm, sản phẩm săn sóc cơ thể vệ sinh cá nhân cũng được tìm thấy trong nguồn nước. Đa số là chất bảo quản, chất tạo hương nhân tạo như nitro xạ hương, chất làm thơm nhân tạo này được dùng rộng rãi trong các loại mỹ phẩm, các chất tẩy rửa...
Hiện một số quốc gia trên thế giới đã cấm sử dụng mùi xạ hương nhân tạo nitro vì gây tác động nguy hại đến môi trường. Một số mẫu nước được lấy từ hồ bơi, một số loài cá biển và cá nước ngọt... khi được phân tích xét nghiệm đã thấy có sự hiện diện thành phần của các loại kem chống nắng.
Các nhà nghiên cứu Christian G. Daughton và Thomas A. Ternes thuộc Cơ quan Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (The US Environmental Protection Agency - EPA) đã có một bản báo cáo được xuất bản trong chuyên san "Viễn cảnh sức khỏe môi trường". Theo đó, số lượng dược phẩm và các sản phẩm chăm sóc cá nhân đi vào môi trường hằng năm tương đương lượng thuốc trừ sâu được sử dụng mỗi năm.
Cách đây không lâu, các nhà nghiên cứu môi trường Đức đã tìm thấy clofibric acid (một loại thuốc làm hạ cholesterol) trong mạch nước ngầm bên dưới một trạm xử lý nước. Sau đó các nhà nghiên cứu này cũng tìm thấy clofibric acid ở các nguồn nước địa phương, ngoài ra còn có thêm Phenazole, Fenofibrate (thuốc điều hòa hàm lượng lipid có trong máu), các loại thuốc giảm đau như Ibuprofen, Diclofenac... Một số nguồn nước tại châu Âu cũng phát hiện có các tác nhân dùng trong hóa trị liệu, ung thư...
Tác hại
Vậy hàm lượng nhỏ dược phẩm trong nguồn nuớc sẽ gây nguy hại thế nào cho con người và môi trường sinh thái? Một số nhà khoa học tin rằng dược phẩm không gây vấn đề nghiêm trọng cho con người đáng kể bởi vì chúng xảy ra ở nồng độ thấp trong nước.
Trong khi các nhà khoa học khác lo ngại nhiều loại trong số các loại thuốc này có nguy cơ gây ảnh hưởng đến việc sản xuất hormone, gây ra các rối loạn về nội tiết. Việc các kháng sinh có trong nguồn nước cũng đem lại nhiều tác hại nghiêm trọng vì có thể gây ra sự đề kháng kháng sinh. Sự đề kháng kháng sinh sẽ dẫn đến những bệnh truyền nhiễm mà không có thuốc để chống chọi
Các sinh vật dưới nước cũng "phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí". Những dược phẩm này gây xáo trộn các chu kỳ sinh học của chúng.
Ví dụ như các loại thuốc kháng trầm cảm được cho rằng sẽ làm thay đổi số lượng tinh trùng và mô hình sinh sản của các loại động vật thủy sinh. Gần đây, các nhà khoa học Anh nghiên cứu cho thấy estrogen, hormone giới tính nữ có trong nước chịu trách nhiệm cho sự biến dạng hệ sinh sản của cá.
Thống kê cho thấy những vùng nào thu hút nhiều bậc cao niên về hưu thì nguồn nước ở những vùng ấy có nguy cơ bị nhiễm dược phẩm càng lớn. Chuyện cũng không có gì khó hiểu, người cao niên sử dụng dược phẩm nhiều hơn những nhóm tuổi khác.
Điều mà những người quan tâm đến sức khỏe lo lắng rằng liệu nguồn nước dùng trong sinh hoạt có thể bị nhiễm dược phẩm hay không.
Câu trả lời là không chuyện gì mà không có thể, bởi các chất chlorine dùng trong việc thanh lọc nước thì hoàn toàn "thúc thủ" trước các loại dược phẩm có trong nước.
Bỏ thuốc đúng cách Để hạn chế sự ô nhiễm nguồn nước gây ra bởi dược phẩm, người sử dụng thuốc cũng nên góp một phần trách nhiệm. Không bỏ thuốc vào bồn cầu, không bỏ thuốc vào bồn rửa chén, không bỏ thuốc trần vào thùng rác mà phải bỏ vào túi nilông và hàn kín lại. Tại Úc và các nước phương Tây, nhà thuốc tây và phòng mạch bác sĩ sẽ là nơi thu hồi các loại dược phẩm không sử dụng, được bỏ vào những dụng cụ chứa chuyên biệt và sẽ có nhân viên của Cơ quan Bảo vệ môi trường đến thu gom về để xử lý. Ở nước ta, chuyện này có lẽ cũng cần bắt đầu lưu ý. |
Năm 2030: 42% người Mỹ sẽ béo phì
Một báo cáo mới đây dự đoán ngay cả khi tốc độ tăng vọt của béo phì chững lại, thì 42% số người Mỹ sẽ bị béo phì và 11% sẽ béo phì nghiêm trọng vào năm 2030.
Theo nghiên cứu, được đăng trực tuyến trong tạp chí American Journal of Preventive Medicine, điều đó có nghĩa là sẽ có thêm 32 triệu người bị béo phì.
Có tin khá tốt đó là số người bị béo phì có thể không tăng nhiều như trước đây người ta từng nghĩ.
Theo tiến sĩ William Dietz, giám đốc bộ phận dinh dưỡng, hoạt động thể chất và béo phì của Trung tâm Kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ, “Có một số bằng chứng cho thấy đường cong gia tăng béo phì có thể thay đổi, tốt nhất là có thể bình ổn”.
Béo phì nghiêm trọng sẽ tăng gấp đôi
Mô hình máy tính do tác giả bản báo cáo Eric Finkelstein và cộng sự thiết kế cũng dự báo rằng tỷ lệ béo phì nghiêm trọng sẽ gấp hơn 2 lần, từ 5% lên 11%.
Nếu ước tính mới này chứng minh là đúng, chi phí cho béo phì ở Mỹ sẽ tốn khoảng 550 tỷ USD. Những công bố trước đây cho biết vào năm 2030 hoặc 2050, tỷ lệ béo phì sẽ trên 50%, 60% hoặc thậm chí là 70%. Nhưng ước tính này thừa nhận rằng tỷ lệ béo phì đang gia tăng với tốc độ tương tự như trước đây. Dùng cả dữ liệu quốc gia và dữ liệu bang ở người lớn từ 18 tuổi trở lên trong khoảng thời gian 1990-2008, các nhà nghiên cứu đã ước tính tỷ lệ béo phì sẽ tăng 33% vào năm 2030, ít hơn ước tính trước đây.
Viện Y học sẽ đưa ra một báo cáo phác thảo những giải pháp giải quyết vấn đề này, có thể bao gồm các sáng kiến về sức khỏe tại nơi làm việc.
Dị ứng da do dùng kem chống nắng
Trong khi những bệnh dịch như sốt xuất huyết, viêm não tăng mạnh trong mùa hè vì lý do thời tiết thì trong những ngày nắng nóng vừa qua, số bệnh nhân bị dị ứng da vào khám tại các BV cũng tăng đáng kể.
Đáng chú ý, rất nhiều nguyên nhân mắc bệnh da vì cố gắng phòng bệnh do nắng nóng.
Phòng bệnh này, mắc bệnh kia
Tại khoa Khám bệnh của BV Da liễu Trung ương, những ngày đầu hè số bệnh nhân vào khám tuy không đông nhưng có đến hơn một nửa là bệnh nhân mắc các bệnh dị ứng da do nắng nóng. Bình quân mỗi bác sĩ của phòng khám phải khám cho khoảng 40-50 bệnh nhân mỗi ngày và phần lớn trong số đó là phụ nữ. Qua tìm hiểu, rất nhiều trong số các bệnh nhân mắc bệnh da, dị ứng da vì lý do dùng thuốc, kem chống nắng. Tương tự, cũng có một số trẻ phải vào điều trị dị ứng da do dùng kem, phấn rôm hoặc sử dụng các loại lá cây, củ quả để tắm trị rôm sảy, hăm dẫn đến dị ứng.
Bác sĩ Nguyễn Thành, BV Da liễu Trung ương cho biết, thông thường cứ vào mùa hè là các ca bệnh đến khám do dị ứng kem chống nắng lại tăng lên. Có trường hợp sau khi sử dụng lần đầu tiên, bị dị ứng, nổi mẩn hoặc ngứa vùng bôi kem, cũng có những trường hợp sau khi bị dị ứng kem chống nắng đã tự mua thuốc về điều trị dẫn đến những hậu quả đáng tiếc, nhẹ thì gây phồng rộp da, nổi từng đám mụn nước, nặng hơn thì lở loét, thậm chí nguy kịch do nhiễm trùng. Theo bác sĩ Thành, nguyên nhân là do mỗi loại kem chống nắng có một tính năng riêng, phù hợp với từng đối tượng và từng vùng da khác nhau trên cơ thể. Đặc biệt, nếu sử dụng phải những loại kem chống nắng, kem làm trắng da… trôi nổi, không rõ nguồn gốc xuất xứ, không đảm bảo chất lượng thì nguy cơ bị dị ứng càng cao.
Tương tự, tại BV Da liễu Hà Nội, theo một đại diện trong Ban Giám đốc của BV, những ngày gần đây BV liên tục tiếp nhận bệnh nhân đến khám với các triệu chứng nổi mẩn đỏ, mụn nước, mẩn ngứa..., trong đó gần 50% bệnh nhân là trẻ nhỏ. Nguyên nhân là do trời nóng khiến làn da của trẻ dễ bị nhiễm khuẩn (vì đổ mồ hôi), dẫn đến hăm, lở vùng bẹn, bìu, nổi mụn, rôm sảy… Tổn thương ban đầu của loại dị ứng da này chỉ là một vài mảng đỏ trên cơ thể nhưng lan rộng rất nhanh.
Phòng bệnh theo tác nhân
Bên cạnh 2 tác nhân chính nói trên, dù mới chỉ là đầu hè tuy nhiên tại một số BV trên địa bàn Hà Nội đã bắt đầu tiếp nhận những bệnh nhân bị bệnh da liễu vào khám, điều trị do nấm da, trong đó phần đông là những người lao động nặng, đổ nhiều mồ hôi, cũng có một số trường hợp vì lý do đi tắm ở bể bơi công cộng.
Thường gặp nhất là các trường hợp nấm kẽ tay, kẽ chân, vào viện với triệu chứng xuất hiện những mảng da màu đỏ, vết nứt hay những mụn nước ở bàn chân hoặc gót chân. Với bệnh này, nếu bệnh nhân phát hiện và điều trị sớm sẽ mau khỏi nhưng nếu để kéo dài, tiếp tục tiếp xúc với không khí ẩm thì có thể bị bội nhiễm.
Điều quan trọng, cần vệ sinh da sạch sẽ và lau khô cơ thể sau khi tắm ở bể bơi công cộng hoặc sau khi lao động ở những điều kiện ẩm ướt, tiếp xúc nhiều với nước.
Với các bệnh da liễu, dị ứng da do sử dụng các loại mỹ phẩm, kem chống nắng, phấn rôm, việc phòng bệnh có thể thực hiện được một cách khá đơn giản.
Bác sĩ Nguyễn Thành cho biết, với phụ nữ cần phải lựa chọn loại kem chống nắng phù hợp với cơ địa của mình và tùy vào loại kem chống nắng có chỉ số SPF cao hay thấp mà bôi cho đủ, không nhất thiết phải thoa quá nhiều kem bởi nếu thoa quá dày, lớp kem thừa không kịp thẩm thấu vào da sẽ là nguyên nhân gây dị ứng da.
Phần da mặt, da cổ và mu bàn tay là những nơi dễ bị tổn thương hơn những phần da khác trên cơ thể, vì vậy nên dùng kem chống nắng có công thức dành riêng cho những vùng da này.
Các bác sĩ da liễu khuyến cáo, để phòng ngừa các bệnh da liễu trong mùa hè, biện pháp quan trọng nhất vẫn là giữ vệ sinh cá nhân, tích cực rửa chân tay bằng nước sạch, tránh để mồ hôi trên người quá lâu.
Hài hước chuyện lấy tinh trùng làm đẹp
Khi được hỏi về cách làm đẹp bằng tinh trùng, nhiều chị em phụ nữ đã tỏ thái độ rất bất ngờ và … kinh hãi.
Tại sao không thử?
Chủ đề làm đẹp bằng tinh trùng (lấy dung dịch tinh dịch bôi lên mặt để làm trẻ hóa làn da) được coi là một chuyện để chị em tán ngẫu trong thời gian gần đây một cách rôm rả.
Theo thông tin từ các trang mạng thì: Tinh dịch và tinh trùng có chứa acid ascorbic (vitamin C) và vitamin B12 có thể giúp trẻ hóa làn da và khiến làn da phụ nữ trở nên rạng rỡ hơn. Vitamin C kích hoạt sự tăng trưởng của các chuỗi protein trong collagen, thành phần chính trong mô liên kết. Vitamin C cũng là một chất chống oxy hóa có thể giải độc hoặc để loại bỏ độc tố và tạp chất tồn tại trên bề mặt của da.
Cũng theo các diễn đàn, cách làm đẹp này có từ thời Trung cổ và đó là phương pháp làm đẹp điển hình của Võ Tắc Thiên, Từ Hy Thái Hậu. “Nếu phương pháp này có tác dụng thật thì tội gì không thử nhỉ?” Ngọc Thúy, nhân viên tư vấn tài chính bày tỏ quan điểm.
Một số chị em đã lập gia đình tỏ ra cực kỳ hào hứng với cách làm đẹp này. Có chị đã hướng dẫn rất tỉ mỉ trên diễn đàn: “Nên dùng tinh trùng tươi và làm buổi tối, làm xong cứ để vậy đi ngủ, sáng ra rửa mặt sẽ thấy da căng mịn như da em bé”. Comment này đã được hơn 500 lần cảm ơn của các thành viên khác. “Nhiều người hỏi mình thực hư cách làm, mình chỉ khẳng định là vợ chồng mình vẫn làm thường xuyên như vậy”, thành viên có nick Angel tâm sự.
Có chị tuy không làm “tươi” nhưng đắp tinh trùng với hỗn hợp dưa chuột hoặc khoai tây và khẳng định da dẻ rất mịn màng. Tuy nhiên cũng có chị kêu ca là thử nhưng bị dị ứng, bỏng rát.
Phương pháp làm đẹp gây shock kinh dị
“Giả sử phương pháp này có tác dụng thì không biết phải lấy nguyên liệu như thế nào? Các chị có chồng, có bạn trai không sao, bọn em chưa có bạn trai, chuyện này lại tế nhị …”, bạn Mai Hương nói. Nhiều người có chung câu hỏi: Lấy tinh trùng kiểu gì, bảo quản thế nào?
Trên một diễn đàn, nhiều chị em còn “tám” vui: “Nếu phương pháp làm đẹp này mà hiệu quả thì các ông chồng sẽ thành… xác khô mất”. Hay có người còn nói: “Cái vụ này nghe lâu rồi mà, có mẹ còn nói là trong tinh trùng có kháng sinh tự nhiên chữa được viêm họng đấy. Ọe em đi nôn đây”, thành viên vanlahoahau chia sẻ.
Nhiều người tò mò hỏi những câu tế nhị. Như thành viên Cita đã hỏi: “cho mình hỏi hơi ngu tí, có cần tinh chế gì để dùng ko hay cứ... nguyên chất rồi chét lên mặt”.
Đa số mọi người chung quan điểm: đây là phương pháp làm đẹp… kinh dị. “Ai mà đủ dũng cảm bôi cái dung dịch này lên mặt thì quá phi thường. Mùi, cảm giác rất buồn nôn”, nhiều chị em đã có gia đình “tâm sự”.
Những câu cảm thán: “Ghê thế! Kinh dị!” được các chị em kêu lên đầu tiên khi nghe về phương pháp làm đẹp bằng tinh trùng. “Mình nói với ông xã về cách làm đẹp này, ông ấy quay ra nhìn mình nghi ngờ, tưởng mình lại ham hố đẩy cao nhu cầu lắm”, chị P.M.L - nhân viên bán hàng siêu thị kể.
Không nên bôi tinh trùng lên mặt
Chuyên gia chăm sóc sắc đẹp Trương Lệ Hằng, thẩm mỹ viện Hồng Hà, giật mình khi nghe nói về phương pháp làm đẹp trên: “Sao chị em lại có thể truyền tai nhau cách làm đẹp này? Vừa mất vệ sinh, lại không an toàn. Trong thành phần kem dưỡng da của một số loại mỹ phẩm có thể có chiết xuất từ một lượng nhỏ tinh trùng, nhưng họ chỉ lấy những thành phần cần thiết chứ không phải để nguyên tinh trùng bôi lên mặt”.
Bác sĩ chuyên khoa da liễu Trịnh Thị Khởi, Bệnh viện quân y 103 cũng cho rằng đây là phương pháp liều lĩnh. “Cũng có thể một số người không sao do da chưa bị kích ứng. Nhưng đây là phương pháp chưa được kiểm nghiệm bởi giới chuyên môn và chưa được công bố an toàn nên chị em không nên sử dụng”, bác sĩ Khởi cho biết.
Hiện vẫn có rất nhiều chị em quan tâm đến cách làm đẹp này. Và khi chưa có khẳng định cụ thể về tác hại của việc làm đẹp bằng tinh trùng thì chắc chắn vẫn còn nhiều người muốn “thử”.
Các nhà khoa học đã phát hiện ra loại protein gây "tiểu đêm"
Các nhà khoa học của Trường đại học Kyoto (Nhật Bản) đã phát hiện ra protein Connexin43 là nguyên nhân gây chứng tiểu đêm ở người cao tuổi. Theo AFP, các nhà khoa học Nhật tiến hành nghiên cứu quá trình tiểu tiện về đêm của chuột thí nghiệm bị mất các gien tạo ra protein Connexin43, trước khi đưa ra kết luận trên.
Trưởng nhóm nghiên cứu Osamu Ogawa cho biết, lượng protein Connexin43 bị giảm sút (thường ở người cao tuổi) sẽ tạo cảm giác bàng quang luôn bị đầy, khiến cho người bệnh phải thức giấc giữa đêm để đi tiểu. Protein Connexin43 là một phần của chuỗi protein trong cơ thể người (đồng hồ sinh học).
 |
Người cao tuổi thường mất ngủ do chứng tiểu đêm - Ảnh: AFP |
Trong khi ngủ, thận của người khỏe mạnh sẽ sản sinh một lượng nước tiểu và nước tiểu được lưu trữ trong bàng quang cho đến sáng nên ít có cảm giác mắc tiểu về đêm.
Nhưng khi lượng protein Connexin43 bị giảm sút đáng kể, các cơ của bàng quang sẽ bị ảnh hưởng khiến cho người bệnh luôn có cảm giác mắc tiểu khi ngủ.
Các nhà khoa học cho hay, protein Connexin43 cũng gây ra chứng “tè dầm” ở trẻ em, vì cơ thể trẻ em chưa phát triển đầy đủ nên lượng protein này tăng giảm thất thường. Ngoài ra, các nguyên nhân khác của chứng tiểu đêm là do vỏ não bị suy yếu nên nhận lầm nhiều tín hiệu “mắc tiểu” từ bàng quang, hoặc thận suy yếu nên sản xuất quá nhiều nước tiểu về đêm. Nghiên cứu được xuất bản trên tạp chí khoa học Nature Communications, ngày 1.5.