Một bài báo vừa đăng tải trên tạp chí Journal of Parasitology Research, Volume 2012 (2012), doi:10.1155/2012/751951Research ArticleCross-Sectional Serological Survey of Human Fascioliasis in Haiti do nhóm tác giả P. Agnamey, E. Fortes-Lopes, C. P. Raccurt, J. Boncy, và A. Totet11CHU Amiens, tại bệnh viện và khoa vi ký sinh y học (Service de Parasitologie et Mycologie Médicales), Avenue René Laënnec, Salouël, 80054 Amiens,Pháp thực hiện cho biết đây là một bài báo đã cho phép tranh luận theo chấp thuận của Creative Commons Attribution License, cho phép sử dụng không giới hạn và dưới bất cứ hình thức nào, cung cấp công trình gốc trích dẫn hợp lý.
Fasciola hepatica, một tác nhân gây bệnh SLGL tại vùng Caribbe, xảy ra phần lớn ở các đảo của Greater Antilles và ở các vùng cục bộ trên hai đảo (Martinique và Saint Lucia) của Lesser Antilles. Tuy nhiên, ngoài vùng Puerto Rico, các thông tin đề cập đến bệnh SLGL ở người trên đảo của Caribbe hiện vẫn còn ngoại lệ hoặc chưa có sẵn số liệu, hoặc thậm chí chưa bao giờ tồn tại trên Haiti. Các tác giả đã tiến hành một nghiên cứu hồi cứu, điều tra huyết thanh học cắt ngang tại vùngPort-au-Prince sử dụng xét nghiệm Western blotting test (LDBIO Diagnostics) cho bệnh SLGL ở người tại Haiti.
Tổng số 216 mẫu huyết thanh thu nhận được từ những người lớn khỏe mạnh cho thử. Tần suất kháng thể trong các mẫu huyết thanh của quần thể nghiên cứu là 6.5% (14/216). Các dải band trội miễn dịch (immunodominant bands) nhận ra trong xét nghiệm Western blots là 27-28kDa (100%), 42kDa (64%), 60kDa, 8-9kDa (28%). Đây là điều tra đầu tiên cho thấy tỷ lệ tương quan tương đối thấp trên những người nhiễm F. hepatica không có triệu chứng tại Haiti.
Bệnh SLGL, một loại bệnh truyền từ động vật truyền sang người đã được nhận ra từ lâu vì những ảnh hưởng của nó đến nền chăn nuôi và thú y. Bệnh gây ra bởi 2 loài sán lá thuộc giống Fasciola: F. hepatica, hiện có mặt tại châu Âu, châu Phi, châu Á, châu Mỹ và châu Đại dương và loài F. gigantica, chủ yếu phân bố tại châu Phi và châu Á. Bệnh sán lá gan lớn là một bệnh do vector truyền với sự phân bố rộng về mặt không gian. Kiến thức hiểu biết về F. hepatica tại vùng Caribbe nói chung và Cuba nói riêng do gia súc nhiễm từ ở vùng mà người Tây Ban Nha đi xâm chiếm Trung và Nam Mỹ từ giữa năm 1500 - 1865. Song, những ca bệnh bản địa đầu tiên của bệnh SLGL ở người chưa được báo cáo tại Cuba cho đến năm 1931. Do vậy, bệnh SLGL được xem là vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng tương đối sớm của lịch sử Cuba. Mặc dù các dữ liệu về bệnh SLGL ở người vẫn còn hiếm tại các vùng láng giềng giống nhau như đảo Hispaniola (Haiti, Dominican Republic) hoặc chưa bao giờ tồn tại tại Haiti, bệnh SLGL trên động vật được báo cáo một cách rõ nét tại quốc gia này. Một nghiên cứu ca bệnh gần đây báo cáo một phụ nữ 26 tuổi người cộng hòa Dominica và đang sống tại Mỹ, chỉ ra có sự tồn tại bệnh SLGL ở người tại Hispaniola. Ngoài ra, tại Haiti, F. hepatica có mặt trên các động vạt và cải xoong (Nasturtium officinale), thường được ăn sống bởi người. Do đó, nghiên cứu này thiết kế nhằm sàng lọc những ca có thể nhiễm F. hepatica không biểu hiện triệu chứng tại Haiti. Một nghiên cứu hồi cứu, cắt ngang và điều tra về huyết thanh học đã cung cấp bởi các nhân viên được tiến hành tại Port-au-Prince.
216 mẫu máu của các nhân công (tuổi từ 18–35) ghi nhận thấy trong một cuộc thăm khám bệnh nghề nghiệp định kỳ, kiểm tra hồi cứu (sau khi giữ đông −20°C) sử dụng xét nghiệm Western blotting test (LDBIO Diagnostics, Lyon, France). Kỹ thuật The enzyme-linked immunoelectrotransfer blot (EITB) với kháng nguyên tiết của F. hepatica để đánh giá chẩn đoán sán lá gan lớn ở người. EITB được thực hiện với các que và thuốc thử theo kít và theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Một test được xem là dương tính khi que có hiện diện 2 hoặc hơn hai dải band đặc hiệu gồm có P27-28kDa band. Chứng âm và chứng dương được kiểm tra trong mỗi thử nghiệm.
Kết quả cho thấy 14 mẫu huyết thanh dương tính với F. hepatica theo Western blot assay, mỗi phản ứng tại 2-3 dải band kháng nguyên đặc hiệu. Dưới điều kiện nghiên cứu, 6.5% quần thể nghiên cứu đã tiếp xúc với ký sinh trùng. Dải band miễn dịch nổi trội (immunodominant bands) thường nhận ra bởi test Western blot là 27-28kDa (100%) và 42kDa (64%).
F. hepatica là một bệnh do sán lá nhưng dã bị lãng quên đang nhiễm trên 17 triệu người trên toàn thế giới. Các nghiên cứu gần đây cho thấy bệnh SLGL dần dần đang lan rộng và có nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe con người và động vật. Ngoài ra, bệnh có nguy cơ tiềm tàng mở rộng do khả năng chiếm thực địa lớn của những tác nhân và loài truyền bệnh đóng vai trò như các vector, bệnh đã được phát hiện tại độ cao rất cao (3500–4200 m) tại nhiều vùng khác nhau của dãy Andean. Tỷ lệ nhiễm trứng cao nhất ở người đã được báo cáo trong các vùng có độ cao rất cao tại Bolivia và Peru. Điều này có nghĩa không chỉ ốc và ký sinh trùng có thể xâm thực thành công trong các điều kiện có độ cao rất cao, mà chúng còn có thể phát triển trong các vùng đã can thiệp chiến lược dẫn đến tỷ lệ lan truyền bệnh ký sinh trùng cao hơn.
Tuy nhiên, sư mở rộng của mối đe dọa y tế công cộng giờ đây chưa biết rõ do số liệu báo cáo quá ít trên toàn thế giới.
Theo một nghiên cứu tiến hành bởi PAHO (Pan American Health Organization) cho thấy sán lá gan được biết là nguyên nhân chính gây giảm trọng lượng thịt tại Cuba, cộng hòa Dominica,Haiti và Jamaica. Sự mất trọng lượng thịt lan rộng có thể do khâu xét nghiệm cho ra tỷ lệ gan bò nhiễm bệnh, một chỉ số về bệnh tật sinh ra bởi nhiễm SLGL. Vào năm 1960, tỷ lệ các gan nhiễm tại Cuba dao động từ 11 - 33%, từ 10 - 23% tại Saint Lucia, 0 - 3% tại Puerto Rico, và 60% của tất cả gan bị quy kết tại một lò giết mổ ở Haiti. Ngoài ra, các tác động về mặt kinh tế và thú y, lan truyền tiềm tàng của F. hepatica sang người không nên xem bị lãng quên. Một điều đáng ngạc nhiên, nhiễm trùng bệnh từ động vật sang người dường như không thấy ở Haiti, vì đối với kiến thức của chúng tôi, hiện không có báo cáo ca bệnh sán lá gan lớn ở người, dù thực tế điều kiện môi trường và thói quen ăn uống rất dễ nhiễm phải bệnh SLGL. Vì trong các quốc gia vùng Caribbe, bệnh SLGL ở động vậy đã được báo cáo chi tiết tại Haiti. Cải xoong, được biết là nguồn nhiễm tiềm tàng đối với nhiễm bệnh F. hepatica ở người, và chúng gần như được trồng và ăn trong các bữa ăn gia đình tại Haiti. Chúng còn được xem là món ăn cho người nghèo (“poor man’s lettuce”) vì nó có thể khả thi và dùng trong toàn quần thể. Ngoài ra, hệ thống cống rãnh rát hiếm và thải phân ra ngoài thường xuyên, tạo điều kiện cho người nhiễm bệnh. Các động vật cũng thường đi lang thang, sự phân bố rộng lớn các ốc Lymnaea cubensis đã được báo cáo khắp quốc gia này. Sự vắng mặt các ca báo cáo bệnh SLGL ở người vì vậy không thể chỉ ra là không có bệnh ở người tại Haiti. Dựa trên các biến số như đói ngheo, tỷ lệ thày thuốc/ bệnh nhân, bệnh SLGL ở người nên nhìn nhận một cách logic về tỷ lệ bệnh tại Haiti, vì có đến 23% số gia súc tại Haiti nhiễm bệnh.
Vì thử nghiệm miễn dịch ELIEB (enzyme-linked immunoelectrotransfer blot) có độ nhạy và độ đặc hiệu cao để chẩn đoán miễn dịch các bệnh ký sinh trùng, nên xét nghiệm này hiện đang được sử dụng trong điều tra huyết thanh học. Test được thực hiện bởi các nhân viên xét nghiệm có kinh nghiệm để giảm đi nguy cơ sai số do lỗi thao tác và lỗi đọc. Tỷ lệ các kháng thể trong các mẫu huyết thanh của quần thể nghiên cứu là 6.5% (14/216). Song, do thiết kế ngghieen cứu, nên kết quả này có thể khong chỉ ra mức độ nhiễm thật sự bệnh SLGL ở người tại Haiti, vì SLGL là một bệnh có liên quan đến nước và đặc trưng từng vùng địa lý. Haiti, mặc dù là quốc gia tương đối nhỏ, nhưngnó có đặc điểm về địa lý không đồng nhất, sắp xếp từ vùng thấp đến vùng cao, từ đồng bằng đến vùng núi và thung lũng và đô thị và ngoai ô đến các vùng nông thôn. Do vậy, sự phân bố không đồng nhất này óc thể giải thích cho vấn đề phân bố bệnh SLGL tại sao ở Haiti. Về mặt cơ bản của các kết quả nghiên cứu, Haiti có thể bị đánh giá sai là quốc gia lưu hành vừa theo danh sách thiết lập của WHO và một số cơ quan khác.
Mặt khác, tỷ lệ huyết thanh dương tính là 6.5% không nên áp dụng cho toàn bộ quốc gia nhưng có thể phù hợp với các vùng lưu hành nặng trong tổng số 216 mẫu máu. Tất cả các đối tượng trong nghiên cứu này có thể đến từ không chỉ 1-2 làng, vì theo dữ liệu về mặt địa lý không có sẵn. Tuy nhiên, các nghiên cứu tiếp theo xét nghiệm điều tra phân là cần thiết để cung cấp cho các nhà chức trách liên quan đến y tế công cộng của các dữ liệu về tỷ lệ mắc mới và tình hình dịch tễ của bệnh SLGL ở người tại quốc gia này. Các điều tra về ốc gần đây cũng cần thiết để xác định các vector tiềm năng khác trong số ốc có mặt tại Haiti và đề ra các biện pháp phòng chống ưu tiên.
Điều tra này đã chủ ý là cung cấp các dữ liệu về dịch tễ học đáng tin cậy. Song, đối với lần đầu tiên, nghiên cứu này đã cung cấp dữ liệu về bệnh SLGL ở người tại Haiti. Nó là một báo cáo sơ bộ mở ra một hướng để tiếp tục nghiên cứu để làm thế nào cung cấp thêm nhiều số liệu dịch tễ học đáng tin cậy về bệnh SLGL tại Haiti. Liên quan đến nồng độ kháng thể với các đặc điểm của bệnh, như là đếm trứng trong phân, có thể giúp làm rõ nhiễm trùng có triệu chứng hay không do sơ nhiễm nhẹ hoặc các yếu tố liên quan đến miễn dịch khác. Tại Haiti, các kết quả này làm mạnh thêm nhu cầu khẩn cấp đề ra các chiến lược và biện pháp phòng chống cụ thể. Các thông tin cập nhật về chẩn đoán và quản lý ca bệnh SLGL cần đặt ra, đặc bietj cho các thầy thuốc lâm sàng chưa quen với biểu hiện lâm sàng của bệnh này tại Haiti.
Tại Việt Nam, thời gian qua, tình hình bệnh sán lá gan lớn (SLGL) ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên đã tương đối ổn định so với giai đoạn 2003-2008, có thể kết quả đó nhờ công tác phòng chống nhiều mặt (do điều trị ca bệnh triệt căn do nguồn thuốc điều trị đặc hiệu cung cấp của Tổ chức Y tế thế giới trong thời gian đầu rất quan trọng và một số thuốc do Việt Nam mua để điều
trị trong thời gian qua, xử lý phân rác và chất thải súc vật từ các lò mổ, làm sạch ray thủy sinh trước khi ăn, khâu phát hiện và chẩn đoán cũng như xử trí bệnh sớm,…), đặc biệt là khâu truyền thông giáo dục sức khỏe về bệnh sán lá gan tại các vùng lưu hành bệnh ở các tỉnh thành có số bệnh nhân lớn (qua báo, đài và kên truyền hình,…).
May thay, thời gian gần đây dù số ca đến khám và điều trị tại các cơ sở y tế không còn nhiều như trước, nhưng số trường hợp đi xét nghiệm tình cờ với các loại giun sán khác, hoặc đi kiểm tra sức khỏe cho kết quả chỉ có duy nhất là ELISA dương tính, trong khi các xét nghiệm cận lâm sàng và siêu âm gan mật khác vẫn nằm trong giới hạn bình thường, vả lại triệu chứng lâm sàng không hề có gì khác thường, nhưng “bệnh nhân” vẫn phải chấp nhận một liệu pháp điều trị bằng toa thuốc sán lá gan lớn là vấn đề cần bàn.
Chẩn đoán xác định một ca bệnh SLGL cần hội đủ hoặc tối thiểu nên có: triệu chứng lâm sàng, bạch cầu ái toan tăng cao, phản ứng huyết thanh dương tính, siêu âm có tổn thương gan, mật. Song hiện nay, nhiều thầy thuốc lại “lãng quên” các tiêu chuẩn này mà cứ luôn dựa vào kết quả xét nghiệm ELISA dương tính rồi cho thuốc là điều không nên, nhất là dùng thuốc một cách bừa bãi và rộng rãi này sẽ dẫn đến kháng thuốc ở người như đã từng kháng thuốc trên trâu bò mà nhiều báo cáo đã mô tả trong y văn gần đây.
Trọng phạm vi bài viết, chúng tôi chỉ muốn chỉ ra rằng bệnh sán lá gan lớn nói riêng và bệnh ký sinh trùng nói chung là “bệnh của lâm sàng” chứ không nên đó là “bệnh của xét nghiệm miễn dịch”. Do đó, chúng ta chỉ xem kết quả xét nghiệm miễn dịch là tham khảo và hỗ trợ cho chẩn đoán chứ không phải là chuẩn vàng trong chẩn đoán. Bài viết này còn dẫn dắt chúng ta đến một suy nghĩ phản ứng huyết thanh miễn dịch ELISA đã có dương tính chéo như bao phản ứng khác, và nghiên cứu này đã dùng xét nghiệm Western Blot để xác định bệnh theo các thang marker khác nhau,…xin cùng chia sẻ và suy nghĩ cùng các đồng nghiệp!