Kháng sinh mới có triển vọng chống bệnh sốt rét
Một nghiên cứu mới đây cho thấy tigecyclin – thuốc đầu tiên thuộc một nhóm kháng sinh mới – có hoạt tính chống sốt rét rõ rệt và cũng có hiệu quả chống sốt rét kháng đa thuốc khi kết hợp với các thuốc chống sốt rét thông thường. Nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà khoa học thuộc Trường ĐH Y Vienna (Áo), Viện Nghiên cứu Sáng kiến Sốt rét Bandarban (Bangladesh) và Trung tâm Nghiên cứu Bệnh tiêu chảy Quốc tế tại Dhaka (Bangladesh).
Plasmodium falciparum kháng thuốc đang ngày càng gia tăng đã dẫn tới việc nghiên cứu các liệu pháp chống sốt rét mới. Tigecyclin thuộc nhóm thuốc kháng sinh mới có tên là glycylcyclin, có tác dụng chống vi khuẩn và được thiết kế đặc biệt để khắc phục 2 cơ chế kháng tetracyclin. Các nghiên cứu lâm sàng về tigecyclin cho thấy thuốc dễ sử dụng và dung nạp tốt với phác đồ 2 lần/ngày.
Trong nghiên cứu, các mẫu máu được lấy từ bệnh nhân nam và nữ bị nhiễm P. falciparum ở Bangladesh. Loại khỏi nghiên cứu những phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú và những bệnh nhân đã dùng liệu pháp thuốc điều trị sốt rét tới 30 ngày trước đó. Khi thử nghiệm với 66 mẫu phân lập, tigecyclin là thuốc có hoạt tính cao nhất chống P. falciparum trong tất cả các kháng sinh. Hơn nữa, tigecyclin có hoạt tính chống P. falciparum cao gấp 6 lần so với doxycyclin; tuy nhiên, khi thử nghiệm kết hợp với doxycyclin, thấy có mối tương quan hoạt tính rõ rệt. Cuối cùng, thử nghiệm thêm về tigecyclin đã xác nhận các nghiên cứu trước đây cho thấy tigecyclin gây ra đáp ứng chết muộn và có thời gian bán thải khá dài khiến thuốc dễ sử dụng hơn tetracyclin và doxycyclin.
Nhóm nghiên cứu kết luận: “tigecyclin có hoạt tính chống sốt rét rõ rệt và có thể là thuốc dự tuyển tiềm năng để nghiên cứu hiệu quả lâm sàng khi kết hợp với các thuốc chống sốt rét tác dụng nhanh trong điều trị P. falciparum kháng đa thuốc ở những bệnh nhân bị bệnh nặng”.
Hải sâm - “vũ khí” mới trị sốt rét
Hải sâm không chỉ dùng để chế biến món ăn mà còn có công dụng trị bệnh. CEL-III, một loại protein có trong hải sâm có thể được dùng làm công cụ hiệu quả ngăn ngừa ký sinh trùng sốt rét phát triển. Theo Hãng tin BBC, các nhà khoa học thuộc ĐH Hoàng gia London (Anh) đã cho protein CEL-III vào ruột của các con muỗi mang ký sinh trùng sốt rét. Kết quả cho thấy protein này đã có tác dụng kìm hãm các ký sinh trùng sốt rét phát triển. Theo các nhà nghiên cứu, phát hiện này giúp đem lại hy vọng tìm ra các phương pháp ngăn ngừa việc lây truyền bệnh sốt rét trong tương lai.
Cho muỗi đốt để miễn dịch với bệnh sốt rét
Những người được tiêm thuốc bằng cách cho muỗi đốt đều miễn dịch với căn bệnh sốt rét này.Tuy thí nghiệm không được tiến hành rộng rãi nhưng dù sao thành công này cũng cho thấy các nhà khoa học có thể đang đi đúng hướng trong việc tìm ra một loại vaccine chống lại căn bệnh sốt rét nguy hiểm.
Bác sĩ Carlos Campbell, làm việc cho PATH (Chương trình sử dụng những công nghệ thích hợp cho sức khỏe) ở Seattle, Mỹ, cho rằng: "Vaccine cho bệnh nhân sốt rét đang đi từ phòng thí nghiệm vào cuộc sống". Từ trước đến nay, chế tạo vaccine phòng sốt rét vàng da là một quá trình rất khó khăn. Thuốc đặc trị Chloroquine chỉ có thể giết ký sinh trùng gây bệnh khi chúng đã vào tới máu, mà đây đã là giai đoạn nguy hiểm nhất với bệnh nhân.Thí nghiệm này cho thấy, trong tương lai không xa, người ta có thể dùng kí sinh trùng hoàn chỉnh của bệnh sốt rét trong việc chế tạo vắcxin phòng bệnh. Hàng năm trên thế giới, có khoảng 1 triệu người tử vong vì sốt rét vàng da, trong đó đa số là trẻ em dưới 5 tuổi ở châu Phi.
Từ lâu, côn trùng được sử dụng làm thuốc trong y học cổ truyền ở Việt Nam. Các bài thuốc làm từ côn trùng, những hiểu biết sinh học về côn trùng làm thuốc. Những vị thuốc có nguồn gốc từ côn trùng rất đa dạng, tác dụng chữa bệnh rất phong phú và chúng xuất hiện trong nhiều bài thuốc khác nhau từ chữa bệnh ngoài da, vết thương nhiễm khuẩn đến các bệnh nội, ngoại khoa, các chuyên khoa. Côn trùng và các sản phẩm của chúng không những được sử dụng trong các đơn thuốc y học cổ truyền mà chính côn trùng sống, còn được sử dụng như một công cụ để châm cứu, để hút máu độc. Ở Việt Nam, các nhà côn trùng học ghi nhận được khoảng 50 loài côn trùng có thể sử dụng trong y học cổ truyền. Tuy nhiên, việc sử dụng côn trùng trong y học cổ truyền phần lớn dựa vào kinh nghiệm. Các loài côn trùng được sử dụng làm dược liệu trong các tài liệu kinh điển là bọ hung, bọ ngựa, sâu dâu, sâu đá, tằm, tò vò, ve sầu, rệp, ong mật… Trong bảng xếp hạng thuốc làm từ côn trùng còn có mặt các loài động vật khác như cóc, giun đất, bọ cạp, rết, nhện.
Hiện nay những vị thuốc là côn trùng có mặt ở hầu hết các hiệu thuốc y học cổ truyền cũng như trong danh mục dược liệu thường dùng ở các khoa, bệnh viện y học cổ truyền trong toàn quốc. Gần đây có một số công trình nghiên cứu về thành phần hóa học, độc tính, hoạt tính sinh học và tác dụng điều trị của một số loài côn trùng hoặc sản phẩm của chúng như các sản phẩm của ong mật, mối, kiến gai đen, sâu chít. Một số sản phẩm là dược phẩm hay thực phẩm chức năng từ côn trùng đã được đưa vào phục vụ cuộc sống.
Tuỳ theo kinh nghiệm của từng vùng, từng dân tộc khác nhau, mọi người sử dụng côn trùng để chữa bệnh hiệu quả. Dế mèn, Niềng niễng chữa trẻ em đái dầm; tổ kiến, hoàng cung mối chữa viêm mũi dị ứng, viêm xoang, hen phế quản. Gần đây, nhiều người sử dụng nhiều loài côn trùng để ngâm rượu uống, làm thức ăn như ong đất, sâu tre, sâu chít, mối, kiến, châu chấu, bọ xít. Côn trùng và các sản phẩm của chúng còn là thức ăn cho nhiều loài động vật có giá trị trong y học cổ truyền như mật ong, kiến, mối, tằm…Người dân thường ngâm các con ong trưởng thành hoặc ngâm cùng với ấu trùng và nhộng của chúng (ong mật, ong bò vẽ, ong đất) trong rượu trắng để làm rượu thuốc có tác dụng bồi bổ sức khoẻ, việc cho ong đốt trực tiếp vào các huyệt vị để phòng, trị các bệnh thấp khớp, tê thấp, đau lưng mỏi gối hoặc châm cứu bằng nọc ong (sử dụng ong châm điều trị liệt do di chứng đột quỵ não).
Vaccin mới ngừa... nghiện cocain
Đây là căn bệnh mà theo thống kê tại Mỹ năm 2009 có tới 2,5 triệu người mắc phải. Theo ông Bridget A.Martel, trưởng nhóm nghiên cứu ở YUS thì đây là loại vaccin mới có tác dụng hạn chế việc lệ thuộc vào cocain thông qua cơ chế làm tăng hàm lượng kháng thể để chặn đứng những hiệu ứng của cocain lên não. Qua thử nghiệm ở 94 tình nguyện viên trong thời gian 24 tuần đã mang lại kết quả khả quan, 1/3 (38%) người dùng vaccin này có lượng kháng thể tăng cao và khả năng duy trì kéo dài hơn 2 tháng. Trong số những người tham gia thử nghiệm có một nửa được tiêm vaccin và nhóm kia là tiêm giả dược, mỗi tuần tiến hành kiểm tra nước tiểu 3 lần để biết mức độ cocain.
Kết quả, 55 người dùng 5 liều thì có trên 38% có mức kháng thể cocain thấp. Phản ứng phụ phổ biến nhất ở nhóm tiêm vaccin là hơi đau và cứng cục bộ tại vị trí tiêm, cảm giác lạnh hoặc bốc hỏa, buồn nôn và tăng tiết mồ hôi. Cũng theo nhóm đề tài thì hiện nay họ đang tiếp tục thử nghiệm lâm sàng để cải tiến hiệu quả sử dụng đồng thời đệ đơn xin phê duyệt lên Cơ quan quản lý thuốc - thực phẩm Mỹ (FDA) cho phép sớm đưa vào thương mại hóa.
Chip từ nano phát hiện sớm ung thư ở người
Theo các nhà nghiên cứu, con chip này có độ nhạy gấp khoảng 1.000 lần so với công nghệ hiện nay và có thể phát hiện các protein dấu hiệu sinh học ở mật độ thấp hơn ba lần so với các phương pháp hiện hành. Việc phát hiện sớm các biomarker là rất có ích vì nó sẽ làm tăng tỷ lệ sống sót ở người bệnh mắc ung thư.
Giáo sư Shan Wang, tác giả bài viết về công nghệ này, giải thích: “Ở giai đoạn đầu (của ung thư), mức protein dấu hiệu sinh học trong máu là rất rất thấp, vì thế cần có công nghệ siêu nhạy để phát hiện nó”. Theo giáo sư Wang, chip nano này có thể xác định protein dấu hiệu sinh học ở mật độ chỉ 1/100 tỷ (hay 30 phân tử trong 1 mm3 máu) và cũng có thể cho phép bác sĩ nhanh chóng xác định phản ứng của bệnh nhận đối với phác đồ điều trị hóa chất. Ông nói: “Nay chúng ta có thể xác định việc điều trị (hóa chất) có hiệu quả hay không trong từ 2-3 ngày, thay cho từ 1-2 tháng”. Loại chip nano trên đã cho thấy tính hiệu quả trong việc phát hiện khối u ở chuột và có thể xác định 64 loại protein khác nhau. Các nhà nghiên cứu còn hy vọng nó có thể phát hiện dấu hiệu của các căn bệnh khác.
Phát hiện mới về gen gây bệnh tổng hợp
Qua theo dõi gen của những người Kavkaz ngày nay, các nhà khoa học nhận thấy vẫn còn một lượng nhỏ loại gen giúp người châu Âu kháng bệnh dịch 3.400 năm trước đây. Chuyên gia nghiên cứu gen và vi sinh Alex Stewart cho biết đợt dịch bệnh trên có thể đã giết chết 90% dân số châu Âu. Con người khi đó để sống sót phải tiến hóa và sản sinh ra những loại gen kháng bệnh chống bị truyền nhiễm loại bệnh trên. Tuy nhiên, điều này lại gây một số bất lợi. Loại gen kháng bệnh đó đến nay vẫn tồn tại và đang tác động tới quá trình phát triển các bệnh cao huyết áp, động mạch vành và tiểu đường type 1. Những gen này có tác động mạnh nhất với những người sau độ tuổi 50.
Hiện nay có khoảng 50% số người Kavkaz mang loại gen này trong khi người châu Á và châu Phi không có. Nghiên cứu của các nhà khoa học Canada cho rằng tìm ra phương pháp kiểm soát được loại gen này sẽ giúp điều trị được các bệnh trên cùng một lúc.
Khám phá mới về bệnh Parkinson
Theo đó các nhà khoa học cho rằng nguyên nhân gây ra bệnh này là do sự gia tăng của một loại sóng đặc biệt trong não và nếu kiểm soát được thì đây sẽ là chìa khóa cho việc chữa trị Parkinson. Con người cử động một cách tự nhiên nhờ một hệ thống phức tạp thông qua việc truyền tín hiệu từ bộ não tới các cơ khác nhau trên cơ thể. Qua đó, chúng ta có thể đi đứng hay cầm nắm. Tuy nhiên, vấn đề sẽ xuất hiện khi các tế bào não không còn kiểm soát được vận động của cơ bắp. Khi đó con người sẽ đi đứng khó khăn, cử động chậm chậm, tay chân run cứng. Và căn bệnh ấy người ta gọi là Parkinson.
Cho tới nay, nguồn gốc của Parkinson vẫn là điều chưa ai biết. Chính vì thế mà một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Anh đã được dư luận đặc biệt chú ý. Họ cho rằng sự gia tăng của một loại sóng đặc biệt trong não là nguyên nhân gây ra căn bệnh này. Giáo sư Peter Brown - Khoa thần kinh, Trường Đại học London cho biết: "Thí nghiệm của chúng tôi là để một người điểu khiển một điểm nhỏ theo những mục tiêu nhất định trên vi tính. Trước hết, họ sẽ giữ điểm nhỏ ấy tại một vị trí cố định. Sau đó khi mục tiêu di chuyển, họ sẽ phải điều khiển điểm nhỏ di chuyển sao cho trúng vào mục tiêu. Họ sẽ phải làm với tốc độ nhanh nhất có thể và những gì chúng tôi phát hiện ra là khi chúng tôi kích thích một loại sóng trong não thì các cử động của cơ bắp sẽ chuyển động đặc biệt chậm lại". Làn sóng ấy giới khoa học gọi là sóng Beta, các nhà khoa học cho rằng sự biến thiên của sóng beta càng lớn thì khả năng chuyển động của các cơ càng chậm. Ở một mức độ nhất định, nó thậm chí còn gây ra sự mất kiểm soát của các cơ.
“Phụ tá” mới cho robot y học
Các kỹ sư tại phòng thí nghiệm Johns Hopkins vừa phát minh ra một loại động cơ bước hoạt động bằng khí nén, được ứng dụng trong các robot y học giúp lấy sinh thiết của các khối u ung thư và chẩn đoán bằng hình ảnh qua máy MRI (máy chụp cắt lớp cộng hưởng từ).
Các kỹ sư tại phòng thí nghiệm Johns Hopkins vừa phát minh ra một loại động cơ bước hoạt động bằng khí nén, được ứng dụng trong các robot y học giúp lấy sinh thiết của các khối u ung thư và chẩn đoán bằng hình ảnh qua máy MRI (máy chụp cắt lớp cộng hưởng từ).Không sử dụng điện và được làm hoàn toàn bằng nhựa, cao su và cramic, động cơ này - được đặt tên PneuStep - khá tương thích với máy MRI do an toàn và khá chính xác. PneuStep gồm 3 piston liên kết với một hệ thống bánh răng. Các bánh răng này quay bằng khí nén và được điều khiển hoàn toàn bằng máy tính đặt bên ngoài máy MRI, giúp nó di chuyển khá vững và chính xác hơn so với tay người.
“PneuStep khá an toàn và giúp robot có thể tiếp cận mục tiêu là các khối u. Điều này sẽ tăng độ chính xác trong việc xác định vị trí và thu thập mẫu mô, giảm sai sót trong chẩn đoán và cải thiện việc điều trị”, các nhà khoa học phòng thí nghiệm Johns Hopkins khẳng định.
Hiện nay việc lấy sinh thiết của một số bộ phận trong cơ thể con người được thực hiện một cách phỏng đoán vì các thiết bị chụp hình ảnh không thể nhìn thấy rõ ràng khối u. Việc nghiên cứu thành công động cơ này mở ra một hướng trong tương lai là phẫu thuật dưới sự hướng dẫn bằng hình ảnh để tiếp cận mục tiêu tốt hơn; giúp chẩn đoán và điều trị ung thư hiệu quả hơn hiện nay.