Việc chẩn đoán và điều trị sốt rét cần rõ ràng và chính xác_chuyên gia Nigeria lên tiếng!; Thử nghiệm chẩn đoán sốt rét và thực hành điều trị tại 3 vùng SRLH có Plasmodium falciparum tại Tanzania: trước và sau khi thay đổi chính sách thuốc quốc gia; Đáp ứng của nhân viên y tế và cộng đồng với hướng dẫn chẩn đoán và điều trị mới sốt rét tại quốc đảo Solomon; Công cụ test RDTs chẩn đoán sốt rét – Có phải là hồi kết của KHV trong sốt rét? ; Xét nghiệm lam máu và test RDTs hiện ngày càng sẵn có
Việc chẩn đoán và điều trị sốt rét cần rõ ràng và chính xác_chuyên gia Nigeria lên tiếng!
Các chuyên gia y tế Nigeria đã thúc đẩy tiến hành việc xác định chẩn đoán và điều trị sốt rét một cách rõ ràng như thể một phân chiến lược để làm giảm bớt gánh nặng của bệnh sốt rét trong quốc gia này. Các chuyên gia cũng đã đưa ra nhu cầu cần thiết phải nhận ra gánh nặng bệnh tật như một vấn đề y tế công cộng liên quan đến bệnh nhân, giúp họ nhận ra và làm thế nào quản lý tránh xảy ra trường hợp SRAT hoặc TVSR. Trong số các chuyên gia tại Đại học Ilorin và tiến sĩ Olugbenga Mokuolu và tiến sĩ Razaq Olaosebikan đến từ đại học London School of Hygiene and Tropical Medicine phát biểu trên phiên bản Maiden của Zolon Health Round Table (HEART) được tổ chức bởi Zolon Healthcare Ltd. Để kỷ niệm ngày sốt rét thế giới năm nay tại Lagos.
Mokuolu-một trong số tác giả đi tiên phong trong nghiên cứu Aquamat, thử nghiệm lâm sàng lớn nhất do WHO đưa ra với tiêu đề “Current Concepts in Management of Malaria: Reversing Mortality” và ông nói sốt rét là một gánh nặng kinh khủng trên lục địa châu Phi và khắp các quốc gia đang phát triển trên thế giới và chúng ta cần điều trị tốt nhất. Tại Nigeria, lưu ý có ít nhất 50% trong số 140 triệu sẽ bị chẩn đoán sốt rét lâm sàng mỗi năm, trên 300.000 ca tử vong hàng năm.
Bắt đầu nhưng chưa có một điểm nhấn nào PCSR, có siuwj đảo chiều về tỷ lệ tử vong, cần có biện pháp ngăn ngừa mới, đảm bảo chẩn đoán chính xác và điều trị kịp thời đối vớ các ca sốt rét chưa biến chứng và sốt rét ác tính. Chú ý đến liệu pháp đơn trị liệu từ lâu không còn chấp thuận vì tình trạng kháng thuốc cũng như tỷ lệ chữa khỏi đang có vấn đề giảm hiệu lực, do đó phải dùng đến thuốc phối hợp [Lumefantrine + Artemether]. Chẩn đoán chỉ dựa trên các triệu chứng lâm sàng e rằng không thuyết phục, ông ta giải thích điều trị chỉ dựa vào nghi ngờ trên lâm sàng chỉ nên xem xét khi việc chẩn đoán về mặt ký sinh trùng là không thể.
Bắt đầu với nghiên cứu AQUAMAT, Mokuola nói nghiên cứu so sánh ‘African quinine với artesunate trong một thử nghiệm lâm sàng” đã chỉ ra đã giảm 22.5% tỷ lệ tử vong trong số các bệnh nhân được điều trị bằng Artesunate so sánh với nhóm điều trị chính của thuốc Quinine. “Cùng với các thử nghiệm này, WHO giờ đây đã thay đổi hướng dẫn điều trị thuốc Artesunate ngoài đường uống như lựa chọn đầu tay trong điều trị và quản lý ca bệnh sốt rét ác tính trên trẻ em của châu Phi. Các liệu pháp điều trị ưu tiên vớ Quinine đến Artesunate đều có tiềm năng cứu sống hàng trăm trẻ em khắp châu Phi mỗi năm. ”
“Nếu ½ trong con số ước tính 8 triệu trẻ em bị bệnh hàng năm có thể điều trị bằng thuốc artesunate dạng tiêm, chúng ta có tiềm lực cứu sống 100.000 trẻ em nhỏ mỗi năm. Đối với những bệnh nhân được điều trị sốt rét tại châu Phi, thử nghiệm này đã mở ra một điểm. Người phát ngôn Zolon Healthcare Limited, ông Albert Udoh nhấn mạnh đến nhu cầu và gần như bắt buộc các người dân Nigeria cần biết các thông tin về bệnh sốt rét vì căn bênh này nguy hại hơn cả HIV.
Thử nghiệm chẩn đoán sốt rét và thực hành điều trị tại 3 vùng SRLH có Plasmodium falciparum tại Tanzania: trước và sau khi thay đổi chính sách thuốc quốc gia
Mô hình cường độ lan truyền của sốt rét đã giảm đi đáng kể nên việc điều trị phỏng đoán không thể biện minh được tại nhiều vùng ở châu Phi. Việc dùng thuốc sốt rét trong phòng chống sau khi chẩn đoán đã được xác định bằng lam máu là cần thiết và ưu thế cho các vùng sốt rét lan truyền thấp. Chẩn đoán có thể được hổ trợ bởi các test RDTs. Trong nghiên cứu này, tác động của thay đổi chính thuốc quốc gia, khi có sự can thiệp của các RDTs đã giúp cho hạn chế việc điều trị sốt rét hợp lý hơn khi có xét nghiệm test nhanh dương tính và nghiên cứu này đã đánh giá hành vi cho thuốc điều trị sau khi dùng RDTs trên những bệnh nhân ngoại trú có sốt <10 tuổi tại các bệnh viện ở Kagera và vùng Mwanza phía bắc của quốc gia Tanzania
Các dữ liệu tiến cứu từ bệnh viện quận Biharamulo và Rubya được thu thập trước và sau khi có sự thay đổi chính sách. Chẩn đoán sốt rét xác định bằng RDT đã có ý nghĩa tác động lớn, cường độ lan truyền bệnh được đánh giá bởi các chỉ điểm huyết thanh của các đối tượng phơi nhiễm với sốt rét. Trước khi thay đổi chính sách, chưa có một bằng chứng liên quan thật sự về mức độ cường độ lan truyền và hành vi kê đơn thuốc. Sau khi thay đổi chính sách, có một sự giảm cho việc kê đơn thuốc và tăng kê đơn kháng sinh. Tỷ lệ mà các cá nhân có xét nghiệm âm tính mà nhận thuốc sốt rét đã giảm từ 89.1% (244/274) xuống còn 38.7% (46/119) tại Biharamulo và từ 76.9% (190/247) đến còn 10.0% (48/479) tại Rubya sau khi thay đổi chính sách.
Nghiên cứu này chỉ ra đây là một bước thay đổi chính sách chính thức, nơi mà các RDTs cung cấp đến các hệ thống và cung cấp y tế để kê đơn thuốc tốt nhất, hay hành vi kê đơn hợp lý nhất. Những phát hiện hiện nay đầy hứa hẹn để nâng cao chính sách điều trị tại các bệnh viện ở Tanzania.
Đáp ứng của nhân viên y tế và cộng đồng với hướng dẫn chẩn đoán và điều trị mới sốt rét tại quốc đảo Solomon
Nhóm tác giả Wijesinghe RS, Atkinson JA, Bobogare A, Wini L, Whittaker M đăng trên tạp chí Malar J. 2011 Jan 10;10:3. The University of Queensland, School of Population Health, Pacific Malaria Initiative Support Centre, Australian Centre for International and Tropical Health, Brisbane, Australia.
Việc nâng cao sẵn có và tiếp cận các liệu pháp thuốc phối hợp có gốc artemisinin (ACTs) trong điều trị sốt rét và sự xuất hiện các chủng ký sinh trùng sốt rét đa kháng thuốc đã thúc đảy nhiều quốc gia sử dụng liệu pháp ACTs như là các phác đồ điều trị sốt rét lựa chọn đầu tay. Năm 2009, Solomon Islands (SI) đưa ra một hướng dẫn chẩn đoán và một hướng dẫn về điều trị mới cho sốt rét. Thuốc ACTs, loại Coartem® (phối hợp artemether-lumefantrine) giờ đây xem như một liệu pháp đầu tiên tại SI cho sốt rét P. falciparum, P. vivax và sốt rét nhiễm phối hợp. Điều trị trúng đích cũng được khuyến cáo trong hướng dẫn chẩn đoán và điều trị mới này thông qua chiến lược duy trỉ chất lượng của điểm kính hiển vi và đưa vào áp dụng các test chẩn đoán nhanh (RDTs). Các yếu tố bảo đảm việc tác động lên cộng đồng và cấp nhận cũng như tuân thủ theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị mới sẽ là việc sống còn nâng cao hiệu quả can thiệp và làm giảm nhiều nguy cơ hình thành nên kháng thuốc.
Để hiểu biết và chấp thuận các đơn thuốc đúng, hợp lý và phù hợp với hướng dẫn chẩn đoán và điều trị mới, 12 cuộc vào thảo luận nhóm (focus group discussions_FGDs) và 12 cuộc phỏng vấn người cung cấp thông tin quan trọng (key informant interviews_KII) được tiến hành tại các làng nông thôn và thành thị của các tỉnh có sốt rét trên quốc đảo Solomon trong 4 tháng liên tục can thiệp bằng các biện pháp chẩn đoán và điều trị phù hợp. Việc thiếu các tiếp cận với chính xác của công cụ chẩn đoán đã được báo cáo ở một số người tham gia và vẫn còn đang tiếp tục để thực hiện điều trị phỏng thử. Thiếu lòng tin vào độ chính xác của các RDT đã tác động “âm tính”. Tuy nhiên, Coartem® đạt được chấp nhận tốt trong hầu hết các thành viên tham gia, chập thuận tốt; tại một số thành viên vùng nông thôn đặt câu hỏi về hiệu quả của nó do thiếu chất lượng thuốc và tác dụng phụ khi dùng thuốc.
Để tiếp cận các vấn đề này, đòi hỏi phải giám sát và đào tạo thêm cho các nhân viên y tế là cần thiết cũng như nâng cao cho các thành viên trong công đồng về đẩy mạnh các hoạt động y tế để tiếp cận mạnh với test chẩn đoán nhanh và phác đồ điều trị mới. Khám phá mở rộng vấn đề này cũng là những ưu tiên cho các nhà quản lý chương trình sốt rét. Thực hành việc điều trị có cơ sở (“presumptive treatment”) và uống thuốc dưới liều chữa khỏi (“sub-curative doses”) là một trong những mối quan tâm cho cả sức khỏe các cá nhân và tăng nguy cơ phơi nhiễm và tăng hình thành kháng thuốc đối với nhóm thuốc xem là thuốc lựa chọn quan trọng cho điều trị sốt rét.
Tương lai của phòng chống sốt rét và tầm quan trọng của chẩn đoán
Năm ngoái, báo cáo sốt rét thế giới (WMR_World Malaria Report) cho thấy nhiều tin tốt đẹp: giảm đến 50% hoặc hơn về gánh nặng sốt rét tại 11 quốc gia châu Phi và 32 trong số 56 quốc gia có lưu hành sốt rét ngoài châu Phi. Trao cho các quốc gia này để cung cấp các biện pháp can thiệp phòng bệnh và điều trị một cách hiệu quả và hướng đến loại trừ sốt rét đòi hỏi sử dụng bền vững các loại xét nghiệm chẩn đoán để xác định nhưng ca nghi ngờ sốt rét trước khi đưa điều trị; tiếp tục hỗ trợ tài chính để phòng chống sốt rét, bao gồm cả việc màn tẩm hóa chất và phun tồn lưu thuốc diệt muỗi.
Senegal, nơi mà tổ chức IntraHealth International đã hỗ trợ phòng và điều trị sốt rét, báo cáo đã giảm đến 41% số ca sốt rét vào cuối năm 2010. Sự cải thiện nhanh như thế trong PCSR toàn cầu và tại Senegal có thể do sử dụng màn tẩm đến 76% người nguy cơ ở khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi; việc triển khai rộng rãi phun tồn lưu thuốc diệt muỗi và được nguồn hỗ trợ quốc tế tăng lên đáng kể trong PCSR trong 10 năm qua.
Vào năm 2000, chỉ có 7% hộ gia đình Senegal báo cáo có ít nhất màn tẩm hóa chất, nhưng vào năm 2010 con số này tăng lên đến 57%; nhiều phụ nữ mang thai (PNMT) và trẻ emđược báo cáo có ngủ trong màn tại Senegal đã tăng nhanh và sự sẵn có các test chẩn đoán nhanh sốt rét, đã giúp cho nhân viên y tế chẩn đoán chính xác và điều trị thật sự những ca bệnh nghi ngờ sốt rét và cho phép họ hiểu biết hơn về tình trạng sốt rét quốc gia hiện tại.
Công cụ test RDTs chẩn đoán sốt rét – Có phải là hồi kết của KHV trong sốt rét?
Trong một ECTMIH 2009 tại Verona, Ý gần đây có hai hội nghị diễn ra song song tập trng vào vấn đề chẩn đoán sốt rét. Bài trình bày diễn ra đáng lưu ý bởi tác giả Walter Wernsdorfer đã đưa một tiêu đề rất kích thích: Sử dụng các công cụ chẩn đoán nhanh - Có phải là hồi kết của chẩn đoán kính hiển vi cổ điển hay không (Use of Rapid Diagnostic Tools – the End of Traditional Microscopic Diagnosis of Malaria?). Không đáng ngạc nhiên đâu, diễn giả đã trình bày các liên quan nghiêm trọng về toàn bộ những gì liên quan đến kính hiển vikhi các test chẩn đoán nhanh ra mắt (RDTs) và e sợ rằng kính hiển vi sẽ trở nên thành “vật cổ xưa hay người thiên cổ”, dùđã rất nhiều nghiên cứu chứng minh tính ưu việt của thiết bị này hơn các công cụ chẩn đoán mới khác trong lĩnh vực sốt rét.
Các thành viên đã tranh luận về vấn đề chất lượng kính hiển vi tại châu Phi (và không chỉ tại đó) thường rất nghèo nàn, và bất kỳ một ca nào dùng RDTs là lựa chọn duy nhất - nhất là tại nơi đó không có xét nghiệm la bô. Họ đề nghị rằng RDTs nên trở thành “chuẩn” trong chẩn đoán sốt rét, kể cả trên người lớn và trẻ em. Các chủ đề vẫn còn đang tranh luận, song ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh các vấn đề chính yếu có liên quan đến các RDTs cần lưu ý:
1.Các nghiên cứu gần đây cho thấy các thầy thuốc lâm sàng thường miễn cưỡng với một điệp khúc với điều trị sốt rét sau khi test âm tính. Vì vậy, từ lâu không có bằng chứng tin chắc đủ để làm hài lòng khi kết quả các xét nghiệm âm tính, do vậy vấn đề chẩn đoán và điều trị sốt rét vẫn còn nhiều bỏ ngõ. Lẽ đương nhiên, đây cũng là một sư thật đối với chẩn đoán sốt rét bằng kính hiển vi;
2.Vì Wernsdorfer nói rằng các RDTs không cho phép đánh giá định lượng về mật độ ký sinh trùng: do vậy, ở những nơi mà hầu hết mọi người mang ký sinh trùng sốt rét, thì kết quả của xét nghiệm hầu hết là dương tính và điều này sẽ không còn gọi là ca sốt rét lâm sàng nữa (clinical malaria). Kính hiển vi không chỉ đánh giá về mặt định lượng, mà còn đánh giá cho biết các giai đoạn khác nhau của ký sinh trùng đang phát hiển và có mặt trong máu (như là thế phân liệt và giao bào trẻ) là các chỉ điểm tiềm năng đối với bệnh sốt rét ác tính;
3.Tính an toàn của các tiếp cận chẩn đoán và phát hiện dựa vào RDTs, đặc biệt đối với trẻ em nhỏ vẫn chưa phải là tin chắc hoàn toàn, dù cho việc giới thiệu các test này trong thời gian qua có nhiều ưu thế;
4.Trong những vùng có sự khác biệt lớn về cường độ lan truyền bệnh khác nhau rõ rệt, một xét nghiệm có độ nhạy cao có thể tốt hơn khi lan truyền/ bệnh lưu hành thấp và một xét nghiệm có độ nhạy thấp một khi lan truyền cao và hầu hết người mang ký sinh trùng, nhưng điều này rõ ràng không thể khả thi trong vấn đề thực hành lâm sàng.
Đối với vấn đề này và các vùng xám khác ("grey areas"), tính thiết thực (và an toàn) của một tiếp cận dựa trên RDTs trong quản lý ca bệnh sốt rét vẫn còn bàn luận chưa thấu đáo, nhất là trẻ em. Từ lâu, kính hiển vi là mối quan tâm, tiếc thay chất lượng hoạt động kính tại các quốc gia lưu hành(và không chỉ ở đó) chưa đạt sự hài lòng! Vẫn còn nhiều lý do để giải thích vấn đề này: thiếu đào tạo, chất lượng nhuộm lam thấp và đôi khi kính hiển vi không có khâu kiểm tra chất lượng điểm kính hiển vi. Phải chăng đây là lý do đủ để “ruồng bỏ” vai trò của kính hiển vi để chuyển sang dùng test RDTs sao?
Ý kiến riêng của chúng tôi rằng kính hiển vi “cổ” không nên ruồng bỏ nó, không nên lãng quên nó, mà nó cần có những nổ lực lớn để đảm bảo đủ tiêu chuẩn chất lượng. để góp phần cho mục đích này, chúng tôi sẽ giới thiệu một cuốn cẩm nang về kính hiển vi một cách hoàn chỉnh trên trang tin www.atlas-malaria.com, có thể hữu ích dùng trong dạy học và như thể là một công cụ tham chiếu trong thực hành chẩn đoán sốt rét.
Tại sao phải là vấn đề chẩn đoán?
Trong quá khứ nhiều ca sốt rét, đặc biệt ở trẻ em dưới 5 tuổi được báo cáo và điều trị phỏng ước dựa trên chẩn đoán phỏng ước triệu chứng, đáng chú ý là triệu chứng sốt cao. Tổ chức WHO giờ đây khuyến cáo nên thử một test chẩn đoán nhanh đối với những trường hợ nghi ngờ sốt rét trước khi đặt ra vấn đề điều trị. Giờ đây, với những ca sốt rét ít hơn, nên sẽ dẫn đến một tình trạng chẩn đoán quá mức hoặc chẩn đoán nhầm quá lớn (over- or misdiagnosis), điều này có thể dẫn đến liệu trình điều trị nhiều ca không cần thiết và thuốc lại đắt tiền, thất bại điều trị vì không nghĩ đến các bệnh lý nền sẵn có các triệu chứng, các báo cáo giám sát sốt rét không chính xác. Điều trị đối với một ca bệnh xác định sốt rét không những đạt được “chi phí-hiệu quả” mà còn quan trọng giúp ngăn chặn kháng thuốc xảy ra do tình trạng kê đơn không cần thiết.
Xét nghiệm lam máu và test RDTs hiện ngày càng sẵn có
Theo báo cáo về sốt rét trên thế giới (World Malaria Report) đến năm 2007 việc chẩn đoán xác định ca bệnh sốt rét chỉ sẵn có ở các bệnh viện Senegal; và trong số 1.5 triệu ca có sốt được điều trị như là sốt rét, chỉ có 3% được xác định sốt rét bằng kính hiển vi. Tuy nhiên, vài năm trước đây, Senegal đã là một trong số vài quốc gia đẩy mạnh sử dụng nhanh và rộng rãi các công cụ chẩn đoán sốt rét sẵn có.
Như một phần hoạt động của chương trình thúc đẩy này, IntraHealth đã phối hợp với Bộ y tế đào tạo các nhân viên y tế tại 10 vùng có chẩn đoán kính hiển vi như là làm thế nào đếm mật độ ký sinh trùng và làm thế nào:
·Chuẩn bị nhuộm lam máu giọt dày và giọt mỏng;
·Nhận ra các chủng ký sinh trùng sốt rét khác nhau;
·Áp dụng các hướng dẫn quốc gia liên quan đến chẩn đoán sinh học sốt rét.
Các phần đào tạo này cũng cung cấp kính hiển vi cho các la bô trên toàn quốc gia để tiếp tục công việc này. Năm 2007, Senegal cũng đào tạo lại chính sách thuốc quốc gia để quản lý các ca bệnh có sốt dựa vào các test RDTs trong chẩn đoán sốt rét tại các hệ thống y tế cơ sở nhà nước sau bệnh viện, bao gồm trung tâm y tế, trạm y tế, lều y tế (health centers, health posts, health huts) để chẩn đoán và điều trị kịp thời các ca bệnh sốt rét bằng thuốc chống sốt rét đặc hiệu.
Sử dụng và một số giới hạn của test chẩn đoán nhanh sốt rét do nhân viên y tế thực hiện tại đất nước Congo
Nhóm tác giả gồm Hawkes, M., Katsuva, J. P, Masumbuko, C. K. đăng tải trên tạp chí Malaria Journal 2009 Vol. 8 No. 308 pp. (23 December 2009), ISSN 1475-2875 với nội dung tiêu đề trên, như một lời khuyến cáo chỉnh sửa và khắc phục các nhược điểm tại tuyến dưới khi họ sử dụng test chẩn đoán nhanh trong điều trị sốt rét.
Chẩn đoán thực hành về sốt rét chính xác, như là các test chẩn đoán nhanh dựa vào hình ảnh sắc ký miễn dịch (RDTs) có tiềm năng ngăn chặn điều trị những ca bệnh không phải là sốt rét và cứu sống nhiều mạng sống cho bệnh nhân. Các nhân viên y tế cộng đồng tình nguyện (Volunteer community health workers_CHWs) đại diện cho nguồn lực có giá trị đầy tiềm năng để mở rộng kỹ thuật đến những nơi nào cần thiết nhất, vùng nông thôn xa xôi tại khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi – nơi đó đang hạn chế về nhân lực và trang thiết bị y tế. Nghiên cứu này báo cáo về một chương trình đào tạo cho nhân viên y tế thôn bản để dùng test RDts trong chiến lược quản lý ca bệnh những bệnh nhi có sốt tại cộng hòa Congo, một vùng châu Phi nhiệt đới đang bị tàn phá bởi con người
Một nghiên cứu thuần tập tiến cứu, cho bảng câu hỏi đánh giá sự hài lòng và phân tích các quyết định. Tổng số 12 nhân viên y tế được đào tạo thực hiện an toàn và chính xác các xét nghiệm chẩn đoán và phiên giiar kết quả của RDTs, rồi triển khai các RDTs tại các cộng đồng dân cư vùng sâu vùng xa trên 357 trẻ em bị sốt. Các CHWs được đánh giá RDTs dương tính đồng bộ và dễ sử dụng. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc sốt rét cao trong nghiên cứu này là 93% (do RDTs), 88% (do kính hiển vi) đạt được chi phí hiệu quả của RDTs so với điều trị điều trị giả ước trên tất cả bệnh nhi có sốt, như một bằng chứng để phân tích xác định. CHWs có thể sử dụng các RDTs an toàn và hiêu quả để quản lý các ca bệnh có sốt trên trẻ em; tuy nhiên, tính chi phí – hiệu quả của test RDTs còn hạn chế trong các vùng có lưu hành sốt rét nặng (?).
Giáo dục cộng đồng: một bước đầu tiên hướng đến chẩn đoán và điều trị
Phương thức giáo dục cộng đồng và gia đình về các triệu chứng và dấu hiệu nặng của sốt rét là một bước đầu tiên quan trọng để bảo đảm rằng tất cả mọi người nhiễm sốt rét được chẩn đoán nhanh chóng và điều trị kịp thời. Tại châu Phi, nơi mà nhiễm sốt rét vẫn tiếp tục là nguyên nhân dẫn đầu gây tử vong trẻ em, các gia đình cần biết để chăm sóc các trẻ bị sốt đến cơ sở y tế hoặc nhân viên y tế cộng đồng có khả năng phát hiện được. Tại Senegal, IntraHealth đang làm việc cùng với các cộng đồng để giáo dục mọi người về cách phòng bệnh sốt rét, dạy họ cveef cách làm thế nào nhận ra triệu chứng sốt rét để thông báo đến cơ quan chức năng y tế và có thể điều trị càng sớm càng tốt. IntraHealth cũng hỗ trợ cho việc phân phối các màng tẩm LLNs và các màng tẩm hóa chất đến dân.
Tất cả số liệu thống kê toàn cầu và cho Senegal, không đặc hiệu đối với IntraHealth International, được trích dẫn từ nguồn 2010 World Malaria Report ấn bản trên World Health Organization Global Malaria Programme.
Đưa test chẩn đoán nhanh vào các quầy thuốc đã đăng ký tại Uganda: Những giới hạn của thử nghiệm chẩn đoán trong tính xác thực của chẩn đoán
Nhóm tác giả nghiên cứu gồm Clare I.R. Chandler, Rachel Hall-Clifford, Turinde Asaph, Magnussen Pascal, Siân Clarke, Anthony K. Mbonye đăng trên tạp chí Social Science & Medicine, Vol.72, Issue 6, March 2011. Tại Uganda, khoảng 2/3 số thuốc bán tại các hệ thống y tế tư nhân, hầu hết đến từ các quầy thuốc. Việc đưa ra các kít chẩn đoán nhanh vào các quầy thuốc, do vậy đây là một sự góp phần tiềm năng để dùng thuốc sốt rét đúng đích trên ca bệnh có ký sinh trùng sốt rét. Họ tiến hành một nghiên cứu tại một quận ở Uganda để thử nghiệm ngẫu nhiên về test RDTs tại các quầy thuốc. Từ tháng 5-7.2009, họ đã phỏng vấn 9 nhân viên quầy thuốc, 5 nhân viên y tế và 4 nhân viên y tế huyện quận và tiến hành 10 cuộc thảo luận nhóm tập trung với tổng số 75 thành viên cộng đồng để điều tra về vài trò của cấc quầy thuốc và tiềm năng thiết lập các RDTs tại các hệ thống y tế này.
Các quầy thuốc cung cấp một loại dịch vụ quan trọng đến cho các thành viên cộng đồng, bản chất trong đó là xác định thông qua người trả lời đối với nhu cầu khách hàng. Tuy nhiên,các quầy dược nhìn nhận vấn đề này mỗi người mỗi khác; phù hợp với luật pháp và quy chế hoặc không, tin tưởng hoặc không tin tưởng. Chẩn đoán và điều trị sốt rét đi song hành với nhau. Các xét nghiệm chẩn đoán cho rằng có ích và các thành viên cộng đồng rất quan tâm đến chuyện này và họ mong đợi rằng việc làm này giúp giảm và loại khỏi bệnh. Tuy nhiên, liệu việc làm này có duy trì như là một bước thường quy trong phòng chống sốt rét hay không? Các biện pháp can thiệp làm tăng kiến thức về đa nguyên nhân cũng như quản lý các bệnh có biểu hiện giống sốt rét sẽ cần thiết để hỗ trợ trong công tác chẩn đoán và điều trị sốt rét một cách hợp lý nhất cho chẩn đoán ký sinh trùng.
Bộ chẩn đoán sớm sốt rét được phát triển
Chương trình Phòng chống sốt rét quốc gia đã phát triển một kít được biết là hệ thống chăm sóc dựa vào gia đình (“Home Based care System”) để chẩn đoán những ca bệnh sốt rét vào giai đoạn sớm nhất. Hệ thống chăm sóc được đào tạo 1.400 dược sĩ và 1.600 người bán sinh phẩm hóa chất khắp quốc gia để cung cấp mọi người thuốc điều trị một cách chính xác. Tiến sĩ Constant Bart Plange tiết lộ điều này tại diễn đàn sốt rét “National Malaria and Sports Symposium” ở Accra. Bà ta gọi điều này sẽ giúp không quy kết cho tất cả những ca bệnh cho là sốt rét có thể nhận ra tức thì. Tiến sĩ Plange hy vọng rằng với liên quan đến thể thao chống lại sốt rét, các thông tin của họ có thể nhân rộng và gây thích thú cho mọi người.
Chi phí hiệu quả của test OptiMal trong chẩn đoán sốt rét tại các vùng sâu vùng xa ở Amazon, Brazil
Nhóm tác giả Maria RF de Oliveira, Almério de Castro Gomes và Cristiana M Toscano cùng nghiên cứu cho biết tại các vùng mà cơ sở hạ tầng cho chẩn đoán KHV còn nhiều hạn chế, thì test chẩn đoán nhanh (RDTs) sẽ phát huy được hiệu quả. Chi phí - hiệu quả của test Optimal® và xét nghiệm lam máu giọt dày được đánh giá và so sánh. Dữ liệu được thu thập tại các vùng sâu vùng xa với cơ sở y tế tại 12 khu vực tự trị tại vùng Brazilian Amazon. Nguồn dữ liệu bao gồm từ Chương trình PCSR quốc gia của Bộ Y tế, Hệ thống chăm sóc y tế quốc gia (National Healthcare System) bảng chi trả, hồ sơ bệnh án của bệnh viện, các dữ liệu ban đầu thu thập được từ các khu tự trị và y văn khoa học. Triển vọng của hệ thống y tế công cộng của Brazil, phân tích dọc bắt đầu từ sốt đến khi kết quả chẩn đoán được cung cấp đến bệnh nhân và tham chiếu tạm thời vào năm 2006. Những Các kết quả trình diễn theo chi phí/ một ca chẩn đoán đầy đủ bằng đồng USD vào năm 2006. Phân tích độ nhạy được thực hiện cân nhắc theo các thông số mô hình quan trọng.
Trong các hoàn cảnh dựa trên các ca bệnh, độ nhạy 92% và 95% lần lượt đối với xét nghiệm kính hiển vi lam máu giọt dày để phát hiện Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax. Độ đặc hiệu là 100% cho cả 2 loài, lam giọt dày có giá trị và có hiệu quả hơn, với lợi ích tăng lên ước tính 549.9 USD. Phân tích độ nhạy, khi độ nhạy và độ đặc hiệu của kính hiển vi đối với P. vivax lần lượtlà 0.90 và 0.98 và khi độ nhạy của nó đối với P. falciparum là 0.83, các test nhanh RDTs có chi phí và hiệu quả cao hơn KHV.
Kính hiển vi có tính chi phí hiệu quả cao hơn test OptiMal® tại các vùng sâu vùng xa nếu độ chính xác của kính hiển vivẫn duy trì tốt trong điều kiện thực địa. Việc quyết định tham chiếu sử dụng test nhanh cho chẩn đoán sốt rét trong các vùng này lệ thuộc vào tính chính xác của kính hiển vi tại thực địa.
Tài liệu tham khảo
1.Reyburn H, Mbakilwa H, Mwangi R, Mwerinde O, Olomi R, Drakeley C, et al. 2007. Rapid diagnostic tests compared with malaria microscopy for guiding outpatient treatment of febrile illness in Tanzania: randomised trial. BMJ 334 (7590):403.
2.Lubell, Y., Reyburn, H., Mbakilwa, H., Mwangi, R., Chonya, S., Whitty, C.J., & Mills, A. 2008. The impact of response to the results of diagnostic tests for malaria: cost-benefit analysis. BMJ. 336, (7637), 202-205.
3.Bisoffi, Z., Sirima, B.S., Angheben, A., Lodesani, C., Gobbi, F., Tinto, H., & Van den, E.J. 2009. Rapid malaria diagnostic tests vs. clinical management of malaria in rural Burkina Faso: safety and effect on clinical decisions. A randomized trial. Trop.Med Int Health. 14, (5), 491-498.
4.Msellem, M.I., Martensson, A., Rotllant, G., Bhattarai, A., Stromberg, J., Kahigwa, E., Garcia, M., Petzold, M., Olumese, P., Ali, A., & Bjorkman, A. 2009. Influence of rapid malaria diagnostic tests on treatment and health outcome in fever patients, Zanzibar: a crossover validation study. PLoS Med. 6, (4), e1000070.
5.D'Acremont, V., Lengeler, C., Mshinda, H., Mtasiwa, D., Tanner, M., & Genton, B. 2009. Time to move from presumptive malaria treatment to laboratory-confirmed diagnosis and treatment in African children with fever. PLoS.Med. 6, (1), e252.
6.English, M., Reyburn, H., Goodman, C., & Snow, R.W. 2009. Abandoning presumptive antimalarial treatment for febrile children aged less than five years--a case of running before we can walk?PLoS Med. 6, (1), e1000015.
7.Swierczynski G., Gobbo M. Atlas of human malaria. ISBN 9788890289200 2007 Published by Az Color, Sirmione, Italy.
8.http;//www.malariasite.com/ what’s on?
9.http://www.malariajournal.
10.http://www.parasitologytoday.com
11.http://www.malariaatlas.com